Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 30/03/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Lung linh sông nước

“Đũ lờn Thạch Hón ơi chèo nhẹ

Đáy sông cũn đó bạn tôi nằm...” (1)

T

ùng về đến bờ sông Thạch Hón thỡ mặt trời đó khuất hẳn phớa bờn kia của dóy nỳi Mai Lĩnh. Khụng gian như ngưng lại êm ả, bóng chiều mờ sương, những tia sáng rụt rè, yếu ớt hắt lên những đám mây lơ lửng cuối trời hồng nhạt rồi nhoà dần. Tùng thẫn thờ nhỡn dũng sụng, thăm thẳm dừi theo những khúm hoa lục bỡnh tớm dập dờn trụi trờn súng nước; gió hiu hiu thổi lất phất mái tóc pha sương xoó xuống vầng trỏn rộng rồi mơn man lên da thịt, một cảm giác xốn xang, rạo rực, chờ mong ùa dâng lên trong anh.

Tùng thổn thức trong tiếng súng vỗ về: Hương ơi! Anh lại về với sông quê, về với bến cũ. Bao nhiêu lần rồi anh không cũn nhớ nữa. Chỉ biết rằng mỗi lần trở về là mỗi lần anh chất chứa, chở nặng thờm niềm khỏt khao, hy vọng, đợi chờ... Đất nước thống nhất đó ba mươi lăm năm rồi. Khoảng thời gian ấy có biết bao đổi thay trong cuộc đời và của mỗi con người, vậy mà anh và em vẫn cứ phải đi tỡm nhau trong cỏch xa biền biệt. Hương à! Anh vẫn nghe thỡ thào đâu đó trong gió, trong sóng nước xôn xao, lời em thủa nào: “... Em sẽ chờ anh ngày chiến thắng, ngày ấy em đi bộ chưa đầy một cây số là tới đây thôi, chỉ sợ anh chê con gái Quảng Trị đen đúa, xấu xí ...”. Chao ôi! Lời nói của em nghe sao mà dịu nhẹ, ngọt ngào, đằm thắm làm vậy, anh ngỡ như từng hơi thở nồng nàn, dập dồn, mê say rơi đậu vào nơi sâu kớn nhất của trỏi tim mỡnh. Anh đó uống lấy từng lời, từng ỏnh mắt ỏnh lờn trong đêm của em mà xúc cảm, mà dạt dào hạnh phúc. Hương ơi! em ở đâu? Anh đó đi qua bao năm tháng để tỡm em...

...Đêm ấy mỡnh đó ở bờn nhau ngay chớnh nơi bến sông này, thầm thỡ, e ấp, ấm nồng, quyến luyến tay trong tay. Trời tối như mực anh không nhỡn rừ được mặt em. Anh thèm qúa chừng một tia chớp cho dù đó là ánh hoả châu, đó  mười mấy ngày rồi ở bên nhau, gần kề bên nhau vậy mà mỡnh đó biết mặt nhau đâu. Anh liều quá phải thế khụng em? Vỡ lỳc ấy mỡnh đang ở trong hoàn cảnh hết sức hiểm nguy. Và đúng như vậy, vừa quàng chiếc bi đông vào người cho em (chiếc bi đông anh trao em làm kỷ niệm), thỡ nghe tiếng bước chân rào rạo của bọn lính nguỵ đi tuần. Em hoảng hốt “Anh đi đi” rồi vội vàng đẩy anh xuống sông, ngụp dưới những bụi hoa lục bỡnh, em nhanh như một con sóc, lao dọc theo bờ sông về phía hạ nguồn. Bước chạy em bỡ bừm, tiếng “Bong, bong...” của chiếc bi đông va vào những thân cây bên bờ sông, bọn lính rượt đuổi về phía em. Tiếng hũ hột, tiếng sỳng nổ... nỏo động cả màn đêm. Qua đến bên kia sông, anh vẫn cũn nhỡn thấy ỏnh đèn pin loang loáng lia đi, lia lại dọc bờ sông, trên mặt sông và những loạt đạn AR 15 chát chúa vang lên. Anh thở phào tin chắc là em đó chạy thoỏt, vỡ nếu bị trúng đạn, hoặc bị bắt thỡ bọn chỳng khụng truy đuổi em lâu như vậy. Nhưng anh vẫn khôn nguôi lo lắng về em, cứ lẩm nhẩm, khấn nguyện mói hoài cho em thoỏt khỏi vũng võy của địch...

                                                   ***

- Mạ! Mạ không tin con à - Hương nũng nịu nói với mẹ.

Bà Thanh dớ dớ ngún tay lờn trỏn cụ con gỏi - Con núi chi lạ rứa, mạ khụng hiểu?

- Thôi mạ đừng có giả bộ. Con không cũn nhỏ dại như mạ nghĩ nữa mô.

- Tổ cha mi, nhỏ nhỏ cỏi mồm...

Bà Thanh mắng yờu con gỏi rồi kộo cụ vào lũng. Quả thực, lỳc nào bà cũng thấy con gỏi mỡnh bộ bỏng, nhỏ dại. Bà nhớ ngày chồng đi tập kết, bế con ra bờ sông Thạch Hón tiễn chồng. Bà khúc, bộ Hương cũng oà khóc theo mẹ, nhỡn bố đưa tay vẫy vẫy trên con đũ chồng chềnh xa dần về phớa bờn kia sụng. Lỳc ấy bộ Hương mới lững chững biết đi, vậy mà đó mười bảy năm rồi. Bé Hương ngày nào bây giờ đó là nữ sinh Trường Nguyễn Hoàng duyên dáng, xinh xắn. Bà lẩm nhẩm: nó giống bố, giống quá chừng, từ vầng trán rộng, mái tóc dày đen, chiếc mũi sọc dừa đến nụ cười, ánh mắt ... chẳng lẫn vào đâu được.

- Mạ biết, mần răng mà dấu con được, chỉ vỡ khụng muốn con phải bận tõm, lo nghĩ thụi. Chỳ ấy là người đằng mỡnh con ạ! Chỳ bị bọn địa phương quân bắn bị thương rồi truy sát gấp quá, may mà vào được nhà mỡnh chớ khụng thỡ cũng chết như hai chú kia đêm bữa tê ở ngoài sông rồi. Thiệt tội cho hai chú đó, bị bắn chết nổi phỡnh trờn sụng mấy ngày mà bọn chỳng nhất quyết khụng cho đem đi chôn cất. Chúng cũn bảo: “Để mần mồi cho hà bá chớ thừa đất mà chôn Việt cộng à... có rứa mới làm gương cho đứa mô muốn đi theo Việt cộng, che dấu Việt cộng”. Sao trời không đánh, thánh không vật cái lũ bán nước, hại dân, tàn ác, dó man vụ nhõn tớnh ấy chớ...

Ngồi trong hầm bí mật, nghe hai mẹ con Hương nói với nhau, nước mắt Tùng ứa ra: “Vậy là Thạch và Nam đó hy sinh... Khụng biết xác hai đứa cũn nổi ngoài sụng, chỡm xuống đáy sông, hay trôi ra ngoài biển mất rồi...Thạch, Nam ơi! Tao biết phải làm thế nào bây giờ đây...” - Tùng nấc nở, đau thắt ở lồng ngực. Anh không ngờ hai đồng đội của mỡnh đó hy sinh như vậy.

Tổ ba người do Tùng làm tổ trưởng, nhận nhiệm vụ trinh sát Khu quân sự Thành Cổ để chuẩn bị cho một trận đánh lớn. Việc đột nhập vào Thành Cổ hết sức thuận lợi, nhưng khi trở ra bất ngờ gặp một trung đội lính Nguỵ đi càn về, không cũn cỏch nào khỏc, Tựng đành phải ra lệnh cho Thạch và Nam cùng đồng loạt nổ súng. Mấy tên đi đầu trúng đạn rống lên thảm hại, số cũn lại nằm rạp xuống đất, sau khi kịp hoàn hồn đó bắn như vói đạn về phía Tùng và đồng đội. Ba anh em vừa chiến đấu vừa rút lui theo hướng ra bờ sông để bơi qua sông trở về hậu cứ. Tùng là người ở phía sau cùng cầm chân địch cho Thạch và Nam qua sông trước. Tiếng súng AR 15 và AK nổ điên loạn, đan xen nhau, cả tiếng lựu đạn thỉnh thoảng lại bùm lên chói tai. Bỗng mắt Tựng hoa lờn, hai chõn rớu lại, loạng choạng, phía bên mông trái rần rật nóng rồi tê cứng, rờ tay thấy máu ướt đầm. Tùng khuỵu xuống lăn vào mấy bụi lau rậm bên đường rồi cứ thế trườn đi. Tiếng súng tiếp tục nổ, tiếng bước chân chạy huỳnh huỵch, tiếng hũ hột, thỳc dục tiến lờn dồn về phớa bờ sụng...

Tùng trườn dần theo những bụi cỏ lau, cố sức vượt qua một ao bèo lục bỡnh rộng, một bờ rào ken kớn cõy dứa tàu vào đến một khu vườn thỡ ngất xỉu... Thời gian trụi đi không biết bao lâu, khi tỉnh dậy Tùng đó thấy mỡnh nằm trong một căn hầm, bên cạnh là một chiếc đèn pin đang được bật sáng và một người phụ nữ không nhỡn thấy rừ mặt. Tựng bàng hoàng, sửng sốt, khụng hiểu mỡnh đang ở đâu, anh cố nghiêng mỡnh để ngồi dậy. Một bàn tay mềm mại đặt lên ngực Tùng:

- Con cứ nằm nghỉ cho khoẻ!

- Tôi... đang ở đâu? - Tùng ngơ ngác, tiếng hỏi đứt quóng.

- Con đang ở nhà mạ. Con bị thương, máu ra nhiều quá... Mạ đó đắp thuốc và băng bó vết thương rồi. Cũng may vết thương không su lắm, ở phần mềm thôi. Mà nhờ cái bi đông ni đây - Vừa nói người đàn bà vừa đưa chiếc bi đông bị thủng hai lỗ cho Tựng.

Tựng nhỡn rồi đưa tay đón lấy chiếc bi đông của mỡnh, anh đó hiểu và nhớ lại tất cả những gỡ đó xảy ra.

- Cám ơn mẹ đó cứu con!

- Thôi con ăn cháo, uống thuốc rồi nằm nghỉ, mạ phải lên chớ ở dưới ni lâu không được, bọn địch tuần tra, lựng sục dữ lắm.     

***

Căn hầm Tùng đang trú ẩn ở ngay trong nhà Hương. Cửa hầm nằm dưới bếp nấu ăn được ngăn cách bằng một tấm sắt dày trên để xoong, nồi và phủ đầy tro vỡ vậy rất bớ mật và an toàn. Đây là một trong năm căn hầm bí mật bà Thanh tự tay đào nuôi dấu cán bộ trong những năm tố Cộng đen tối của Mỹ - Nguỵ. Bốn chiếc kia không ở trong khuôn viên nhà và đó bị mưa lũ làm hư hỏng. Bà Thanh là người rất có kinh nghiệm trong việc đào và nguỵ trang hầm bí mật. Bà được mệnh danh là “Đảng viên đậy nắp hầm”, một trong những cơ sở cách mạng tin cậy nhất của khu vực Cổ Thành này. Thật may mắn cho Tùng và như trời định sẵn anh đó ngất xỉu ngay tại vườn của nhà Hương và được mẹ Hương đưa ẩn náu tại căn hầm bí mật này. Đêm đó Hương đi thăm một cô bạn cựng lớp bị ốm nằm ở bệnh viện tỉnh nờn mói đến hôm sau, khi mẹ bảo cảnh giới để chăm sóc vết thương cho Tùng thỡ cụ mới biết.

Tùng ở dưới hầm bí mật chật chội, ngột ngạt và ẩm mốc, cả ngày không biết làm gỡ, hết nằm rồi lại ngồi, hết quay bờn này lại quay bên kia, đầu óc căng lên như sợi dây đàn vặn hết cỡ, vết thương thỡ tấy sưng lên nhức nhối khiến anh hết sức khó chịu. Anh cảm giác như mỡnh đang nằm trong một nấm mồ vậy. Một điều làm Tùng rất xấu hổ và khó xử đó là mọi sinh hoạt của anh đều được gói gọn trong căn hầm bí mật, đặc biệt là việc vệ sinh. Biết được suy nghĩ của Tùng, bà Thanh động viên:

- Con cố gắng chịu đựng, đừng ngại chi hết...

- Mẹ à! Con ở đây nguy hiểm cho mẹ và em quá. Mẹ có cách nào đưa con ra khỏi đây không?

- Mạ đó tớnh rồi, vết thương của con chưa lành hơn nữa tỡnh hỡnh bờn ngoài đang cũn rất căng. Mấy ngày nay, bọn dân vệ sục sạo dữ lắm, chúng nghi là vẫn cũn bộ đội ta ẩn náu ở trong này. Nhưng thôi, mạ sẽ thu xếp cho con buổi tối lên ngủ ở trên nhà cho đỡ cực và để chữa trị, chứ ở dưới cả ngày không đảm bảo vệ sinh vết thương cứ bưng mủ mói...

Thế rồi kể từ sau hôm đó, cứ mười giờ đêm đến bốn giờ sáng là Tùng được lên ngủ ở trên nhà. Nhà Hương chỉ có hai giường, một giường ở phũng ngoài và một giường ở trong buồng, để đảm bảo an toàn cho Tùng, bà Thanh sắp xếp Hương cùng ngủ với Tùng ở giường trong buồng. Lúc đầu Hương và Tùng không chịu và chính cả bà Thanh cũng phân vân, đắn đo suy nghĩ mói, bổn phận một người mẹ, một người vợ, bà hiểu phải làm như thế nào. Nhưng bà tin bởi một niềm tin, lẽ sống lớn lao hơn thế rất nhiều. Bà bảo: “Mạ biết hai đứa bây mắc cỡ chứ gỡ, ngày trước hồi tố cộng, cán bộ mỡnh ở dưới hầm bí mật với nhau có khi hàng tháng trời chỉ một nam, một nữ mà có răng mô, huống hồ chi ở nhà mỡnh. Thằng Tựng là đồng đội của ba con Hương, mạ coi như con... Mạ nói hai đứa biết để khi bọn chúng đến lùng sục thỡ... rứa, rứa nghe”.

Tùng và Hương phải miễn cưỡng ngủ chung với nhau trên một chiếc giường mà ranh giới ngăn cách họ là một chiếc chăn mỏng để ở giữa. Chiếc giường một mét hai trở nên rộng rói, thừa thải vỡ cả hai cựng nằm quay về hai phớa và chẳng người nào giám đụng vào tấm chăn mỏng kia hoặc cựa mỡnh gõy lờn một tiếng động dù là rất nhỏ. Đêm cứ thế trôi đi trong nín lặng chỉ có bóng tối và những nhịp thở đều đều của hai người cùng với sự e thẹn, ngại ngùng dâng lên đến đỉnh điểm, đè trĩu lấy họ. Tùng bị thương ở mông phải nằm nghiêng về một phía đó đành, cũn Hương thỡ thật là tội nghiệp, mấy đêm liền nằm một tư thế tê cứng cả mông mà chẳng giám trở mỡnh, nhiều lần định bảo Tùng đổi chỗ mà không sao mở miệng ra được. Cực chẳng đó, rồi cỏi khú lú cỏi khụn: Hương phải bẹo vào mông mỡnh để tự chữa trị cái căn bệnh “bất đắc dĩ” đó. Nhưng trời ơi! bẹo nhẹ thỡ chẳng ăn thua chi mà bẹo mạnh thỡ khổ cỏi thõn, cũn gỡ là mụng nữa chứ...

Tùng cũng chẳng hơn gỡ, anh như một cây xấu hổ co mỡnh lại hết cỡ. Cả đời đó bao giờ được cầm tay con gái đâu, huống hồ bây giờ lại nằm cạnh một thiếu nữ lạ hoắc, lạ hơ. Một bên mông thỡ ờ ẩm, một bờn mụng thỡ đau rần... Tưởng ra khỏi hầm bí mật là như đang ở dưới địa ngục bỗng dâng được lên trên thiên đường, nào hay phải gồng mỡnh lờn hơn cả “cực hỡnh”...  Mà đau với tê thôi thỡ cũn cố chịu được, đằng này cả người Tùng cứ rưng rức, rừng rực lên, cái cảm giác mới mẻ, lạ lùng chưa từng thấy bao giờ của một thằng con trai khụng sao kỡm nộn được, thôi thúc, run rẩy, ngất ngây... Chao ôi! Hương thơm từ mái tóc, từ thịt da thiếu nữ đang thoang thoảng toả ra ngọt ngào...

Nằm bên cạnh Tùng, Hương cứ thế âm thầm tự “tra tấn” mỡnh, nhưng chỉ đỡ được một hồi lâu, sau đó thỡ như một căn bệnh đó quen thuốc chẳng cũn ăn thua gỡ nữa... cụ dở cười, dở mếu: “Mạ ơi! Mạ nhủ con làm chi con cũng nghe, cũn như ri con chịu hết nổi rồi...”...

Hương đang khổ sở thỡ giật bắn mỡnh bởi tiếng gừ cửa dồn dập và tiếng quỏt thỏo liờn hồi: “Mở cửa! mở cửa mau ... ”. 

- Mấy ụng mần chi mà dữ dằn rứa! - Bà Thanh lờn tiếng.

- Mụ dấu Việt cộng ở mụ khai ra mau, bọn tui biết hết rồi...

- Mấy ụng núi chi lạ. Việt cộng mụ lại dại dột vụ nhà tui - Thành phần liờn đới Cộng sản mà ngày mô các ông cũng kiểm tra, sục sạo...

- Khụng núi lụi thụi với mụ nữa. Kiểm tra! - Thằng chỉ huy sừng sộ.

Một thằng ôm súng xộc thẳng vào buồng, ánh đèn pin xỉa xói vào người Hương trong chiếc váy mỏng tanh cũn cỡn buông xuống đôi chõn thon dài trắng muốt, lồ lộ cặp vỳ trũn lẵn phập phồng, khuất hờ sau chiếc ỏo ngực màu hồng... Hương vơ vội chiếc chăn rồi hét lên: “Mấy ông mần chi lạ rứa... Mạ ơi!... Mạ ơi!...”.

- Này mấy ụng, nhà tui mạ goỏ con cụi. Mấy ụng doạ nạt, ức hiếp vừa vừa thụi chớ. Tui kờu làng xúm bõy chừ...

Tên lính nguỵ hầm hừ quay ra: “Nè! Mụ cũng vừa vừa cái mồm thôi... liệu cái hồn, coi có ngày đó...”...

Chờ cho bọn chúng đi khuất, bà Thanh đóng chặt cửa, tắt đèn rồi dũ dẫm đi vào buồng. Bà thỡ thào: “Con chịu khú nằm yên ở đó đó nghe, đề phũng bọn chỳng trở lại” rồi quay ra ỏp tai vào vỏch nhà nghe ngúng. Nằm ở dưới giường Tùng chưa hết nỗi bàng hoàng và ngỡ ngàng. Anh vừa cảm động vừa khâm phục mẹ và Hương. Tùng tự nhủ: “Quả đúng là mọi việc đó xảy ra như mẹ đoán lường và Hương đó đóng một vai kịch “để đời” bằng cả sinh mệnh của mỡnh. Chao ụi! Nếu bị lộ thỡ sao nhỉ? Mỡnh chết đó đành nhưng cũn mẹ và Hương. Không! mỡnh khụng thể để cho mẹ và Hương phải nguy hiểm như thế này được...”.

Tùng đang tự dằn vặt mỡnh thỡ lại nghe thấy tiếng mẹ, nhỏ nhẹ: “Thôi con lên ngủ đi, bọn chúng đó đi xa rồi”. Tùng nằm yên không nói gỡ, anh cũn lũng dạ nào mà lờn giường ngủ được nữa. Không phải Tùng sợ hiểm nguy mà là lũng anh day dứt, dày vũ. Anh Thương mẹ và Hương quá đỗi...

Một tiếng nói khẽ khàng như hơi thở thoảng xuống:

- Mạ bảo anh lên giường ngủ đó.

- Em ngủ đi! Anh nằm ở đây cũng được.

- Không được mô!

Có tiếng e hèm của bà Thanh ở giường ngoài. Tùng biết là mẹ đang ra lệnh cho anh nên đành phải lên giường cũn Hương cũng lại quay về với cái tư thế “bất đắc dĩ” của mỡnh...

Thời gian cứ thế trôi đi, như là một lẽ thường tỡnh ở đời, ví như sự vất vả, cực lũng của con người dù có thế nào rồi cũng được quen dần. Sự e thẹn, ngượng ngùng, khó chịu của Tùng và Hương cũng vậy, từ chỗ tưởng chừng như không chịu nỗi và cũng như bà Thanh họ đó vượt qua, đó nhận ra cỏi lớn lao, cao đẹp hơn thế rất nhiều... họ thầm nguyện, ấp ủ từ trong thẳm sâu của cừi lũng mỡnh một điều gỡ đó thiêng liêng lắm, không thể diễn tả được bằng lời mà lung linh, trong suốt đến vô ngần...Và rồi đêm cuối trước khi Tùng lên đường trở lại hậu cứ hai người đó thổn thức bờn nhau, tấm chăn mỏng vẫn làm ranh giới nhưng họ không cũn quay lưng về nhau nữa, đôi bàn tay lần tỡm nhau, giữ yờn trong nhau, nồng nàn thấm từng mạch mỏu chảy vào tim nhau....

***

Mặt trời đó tắt hẳn nhưng dũng sụng Thạch Hón lại bừng sỏng, xụn xao lúng lỏnh như rải vàng, những con sóng dỡu dặt nối tiếp nhau vỗ bờ, dào dạt lay thức nỗi niềm đau đáu trong Tùng: “Thạch, Nam ơi! Chúng mày ở đâu?... hết chiến tranh đồng đội, đồng chí đi tỡm nhau! Nhưng tao biết tỡm ở nơi đâu dưới đáy nước thăm thẳm, lung linh kia bây giờ... Linh thiêng chúng mày hóy mỏch bảo cho tao...”.

Tùng rờ tay lên túi áo ngực lấy tờ giấy báo tin, mặc dù đó đọc đi, đọc lại nhiều lần đến thuộc lũng từng dấu, từng nột chữ:

“Kính gửi gia đỡnh liệt sỹ Nguyễn Phan Tựng.....

....địa chỉ liên lạc .... ”.

Niềm hy vọng mỏng manh nhen lờn trong Tựng. Anh cố nhớ lại tất cả những gỡ đó xảy ra cỏch đây gần bốn mươi năm về trước, ngày mà Thạch và Nam hy sinh, với một suy nghĩ có thể người ta đó tỡm thấy một điều gỡ đó liên quan giữa anh với Thạch và Nam, nhưng không sao nhớ nổi.

Theo địa chỉ liên lạc, Tùng thẫn thờ đi dọc bờ sông theo tuyến kè đang xây dựng chạy uốn éo cùng dũng sụng về phía hạ nguồn. Anh dừng lại trước một căn lán sát bờ kè “Đội thi công số 2...” - Đây rồi - Tùng thốt lên rồi bước vào.

Một người đàn ông khoảng chừng năm mươi tuổi, chắc khoẻ hồ hởi bắt tay Tùng:

- Chào anh! Tôi là Hùng, người gửi Giấy báo tin này!

- Cám ơn anh Hùng - Tùng ấp úng, trả lời.

- Thế anh và anh Tựng quan hệ thế nào ạ?

- Dạ! Tụi...tụi chớnh là Tựng.

Hùng đứng ngây ra một lúc, vẻ mặt ngạc nhiên - Anh bảo sao ạ?

- Anh không nghe nhầm đâu, tôi chính là Tùng, người mà anh đó bỏo tin.

- Trời ơi! Thật thế sao? Vậy thỡ chỳng tụi thành thật xin lỗi anh. Anh thụng cảm cho chỳng tụi nhộ!...

- Tôi mới là người phải cám ơn các anh chứ. Tôi linh cảm có một điều gỡ đó thiêng liêng, tâm nguyện lắm. Từ hôm nhận được tin đến giờ tôi cứ xốn xang, nôn nao, canh cánh thế nào ấy, cứ như có ngọn lửa đang ngấm cháy, thôi thúc trong lũng vậy. Tụi thấy như có ai đó luôn thấp thoáng ẩn, hiện, lúc xa, lúc gần .... Nhưng thôi sự việc thế nào xin các anh cho tôi biết ạ!

- Là thế này - Hựng chậm rói kể: “ Đơn vị tôi được giao nhiệm vụ xây dựng đoạn kè từ Km 1 + 600 đến Km 2 + 550 để chống xói lở và tạo cảnh quan cho bờ hữu sông Thạch Hón này. Trong quỏ trỡnh đào đắp đất ở bờ sông chúng tôi phát hiện được những mảnh hài cốt không nguyên vẹn của các liệt sỹ cùng với những di vật như súng AK, mũ cối, ba lô, dép cao su... trong đó có chiếc bi đông...

- Sao! Chiếc bi đông ư?...

Tùng thảng thốt rồi nắm lấy bàn tay Hùng: “Anh bảo là chiếc bi đông ư?...”

- Đúng vậy! Chiếc bi đông có bốn lỗ đạn thủng và những dũng khắc tên, địa chỉ của anh.

Tùng bật đứng dậy bàng hoàng, chới với như đất dưới chân anh đang sụt lở, chao đảo, quay quầng, anh đưa tay quờ quạng cố tỡm một điểm dựa cho mỡnh nhưng hoàn toàn vô ích. Cả dũng sụng trước mặt Tùng bỗng thẫm đỏ, cuồn cuộn sóng dâng vỗ tỏp vào lũng, búp nghẹt lấy con tim anh...  “Trời ơi! Đúng là em rồi...Hương ơi! Hương ơi!...chỉ  vỡ vậy nờn chưa đầy một cây số em mới đi mói mà khụng tới được bến sông này. Không! Anh nói không đúng, không đúng một chút nào! Suốt từ đó đến nay từ cái đêm chia tay nhau ấy em đó mói mói chờ anh ở bến sụng này mà anh khụng hay. Nhưng Hương ơi! Mỡnh hẹn hũ nhau, khao khỏt, chờ mong nhau để rồi như thế này ư hở em ?... Chiếc bi đông đó cứu sống anh nhưng sao lại không che chở được cho em. Tại sao vậy, tại sao vậy cơ chứ... em đó thu hỳt địch về phía mỡnh cho anh bằng tiếng va chạm của chiếc bi đông, bằng cả mạng sống của em... vậy mà anh...”...

- Chiếc bi đông hiện đang được trưng bày tại Khu Bảo tàng Thành cổ, ngày mai tôi sẽ đưa anh đến đó - Hùng nhỏ nhẹ núi với Tựng...

***

Tùng mơ màng như thấy mỡnh đang trôi nhè nhẹ trên dũng sụng xanh trong ngăn ngắt, lăn tăn sóng, với những khóm hoa lục bỡnh nở tớm dập dờn... 

Một cơn gió lạ xào xạc thoảng qua rờn rợn, nổi gai ốc... giọng ai trầm ấm nghe như từ dưới dũng sụng vọng lờn, từ trong thinh khụng rơi xuống, vừa quen, vừa lạ: “Tùng ơi! Mày có nhận ra bọn tao không? Thạch, Nam... đây mà! Hồi chiều mày thả hương, thả hoa bọn tao nhận được rồi. Bọn tao gọi mày khản cả tiếng nhưng nước chảy mạnh quá nên mày chẳng nghe thấy. Cô bé đeo chiếc bi đông của mày cũng gọi mày nhiều lắm. Cô ấy cài hoa lên kín cả mái tóc đẹp ơi, là đẹp. Ai cũng dành phần hoa của mỡnh cho cụ bộ. Bọn tao gọi cụ ấy là nàng tiờn cỏ đó: Cô bé có dáng người thon thả, mềm mại, eo thắt, đôi mắt to sâu và sáng lấp lánh, miệng cười chúm chím thiệt là duyên dáng; làn tóc đen nhánh buông xoó xuống quỏ vai, phập phồng trờn khuụn ngực căng trũn đầy sức sống, cũn nước da thỡ trắng hồng, mịn màng non tơ như cánh hoa hồng mới hé nở long lanh dưới những giọt sương sớm vậy.. Mày cũn nhớ khụng hở Tựng? - Vẫn nguyờn vẹn trắng trong như thủa nào gặp mày đó Tùng ạ! Cô ấy bảo: Đó chờ mày trong suốt những thỏng năm qua và sẽ cũn mói mói tại nơi này. Mày có nghe thấy tiếng cô ấy nói với chúng tao không? Rằng: “Em cứ ở mói dưới dũng sụng này thỡ làm sao mà gặp được anh ấy...”. Bọn tao chẳng biết phải trả lời cô ấy như thế nào nữa!...”

 Tựng giật mỡnh tỉnh dậy, bàng hoàng, mồ hụi vó ra như tắm...                

 Tựng ào xuống dũng sụng Thạch Hón, đứng trân ra ngẩn ngơ như kẻ không hồn rồi úp mặt xuống dũng sụng. Dũng nước thấm vào da thịt, hoà với nước mắt, đẫm đầy, oà vỡ, réo xiết đến tận mọi ngừ ngỏch thẳm sõu của cừi lũng Tựng. Tất cả đang tan chảy với dũng sụng, lay thức, trỗi dậy trong Tựng hơn bao giờ: “Hương ơi! Em ở đâu? Hóy núi với anh đi em! Anh khát thèm được nghe em nói quá chừng... Nhất định mỡnh phải gặp nhau, phải tỡm thấy nhau em nhộ dự cú phải lấp đầy, nghiêng đổ cả dũng sụng này...”. Tựng thầm thỡ gọi Hương, gọi hoài, gọi mói...Rồi tự nhủ: Phải đưa đồng đội, đồng chí mỡnh, đưa Hương lên khỏi dũng sụng... Ừ đúng rồi có một người nào đó đó núi với mỡnh: “Cần phải cú một dự ỏn nạo vột dũng sụng Thạch Hón, xõy một tượng đài bên bờ sông ...đây là nghĩa cử, tri ân, đạo lý... sẽ làm vơi bớt nỗi đau, mất mát, hiu quạnh của những người mẹ, người vợ, người thân của các Anh hùng, Liệt sỹ đó chiến đấu hy sinh nằm lại trên dũng sụng Thạch Hón này”...

Một khoảng lặng õn tỡnh sõu nặng, da diết, thắt đau cuộn chảy mênh mang trong lũng Tựng. Tựng đắm nhỡn dũng sụng ngỡ như đang ôm trọn vào lũng với tất cả những gỡ thiờng liờng, cao đẹp... nhớ thương đến tận cùng của những tháng năm đó đi qua, những khát khao, cháy bỏng, hy vọng và đợi chờ của ngày mai đang tới. Dũng sụng Thạch Hón vẫn thao thiết, quặn mỡnh chảy, những khúm hoa lục bỡnh tớm vẫn dập dờn trờn sóng nước Lung linh.

      V.X     

 

                                                              

________

(1)Thơ: Lê Bá Dương         

 

Văn Xương
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 154 tháng 07/2007

Mới nhất

Bộ từ điển bỏ lại giữa rừng sâu

9 Giờ trước

Sau hiệp định Pari, 27/1/1973, chiến tranh tạm dừng, đại đội tôi đóng quân giữa bãi cát Lệ Xuyên, huyện

Đi tìm cỏ

9 Giờ trước

Nhiều lúc ngồi thẫn thờ nhìn đàn trâu bò gặm cỏ dọc triền đê chợt giật mình: Cỏ quê

Chị ấy…

9 Giờ trước

Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế tổ chức một chuyến đi thực tế dài ngày tại Tổng Công

Pa Ling mùa mưa

9 Giờ trước

Tháng 11, dưới cơn mưa rừng tầm tã, chúng tôi tìm về thôn Pa Ling, xã A Vao, huyện Đakrông,

Chiều không tắt nắng

27/03/2024 lúc 16:33

Truyện ngắn của THỦY VI

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

31/03

25° - 27°

Mưa

01/04

24° - 26°

Mưa

02/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground