M |
ùa thu.
Hàng năm vào độ cuối thu, khi những đợt mưa muộn vắt hết mây đen cho mấy cơn sau cùng của mùa, bầu trời còn lại tinh toàn mây trắng, nằm xếp lớp lang, bàng bạc trên cao xanh như vỏ hến, ấy cũng là lúc bắt đầu cho mùa cưới trong vùng.
Ấy cũng là lúc cây phong du bên kia đường, trước cổng Ủy ban phường với những trái phong du lông xù tròn tựa tơ non buông thả vào gió trời, bay cùng khắp đó đây. Những trái phong du xinh xinh ấy có lúc đậu lại trên bàn làm việc của Dần và chỉ đến dừng trong thoáng chốc rồi bay đi. Không một ai trong Ủy ban này biết đến cuộc thăm chơi nhẹ nhàng đó của những trái phong du, ngoài Dần. Có lúc cô đã khẽ nâng nó lên, cạ nhẹ phần tơ trắng nõn vào má, vào môi mình, và lắng nghe cảm giác buồn buồn, nhồn nhột lan khắp cơ thể. Và cứ thế mỗi lần như vậy, Dần lại cảm thấy thương nhớ, bâng khuâng về một điều gì không rõ rệt.
Dần vào làm việc ở Ủy ban đã hơn năm nay, công việc chính của cô hàng ngày là phụ trách đăng ký kết hôn… Trước đây cô còn phụ trách luôn khai sinh, khai tử, nhưng đó việc này chuyển sang bên công an.
Chiều nay Dần ghé lại văn phòng lấy đôi que cô bỏ quên ban sáng về đan nốt chiếc áo len trẻ con. Ủy ban chỉ làm việc buổi sáng nên buổi chiều văn phòng vắng ngắt. Đó đây, những cuộn giấy loại vo tròn lăn nằm chỏng chơ trên mấy mặt bàn lem nhem vết mực. Lúc mở tủ lấy đôi que đan nằm giữa quyển sổ, bên cạnh tờ giấy kết hôn vừa ký, vô tình Dần đã đọc lại lần nữa nội dung của nó. Nội dung tờ kết hôn thì chẳng có gì khác, ngoài những điều cô đã thuộc làu, nhắm mắt lại cũng có thể kể ra vanh vách. Duy năm sinh của người nữ đăng ký, không hiểu sao nó trở nên mới hoài và hấp dẫn với cô. Người nữ trong giấy kết hôn sinh năm năm mươi cùng một tuổi với Dần, tuổi con cọp.
Lấy que đan xong, không hiểu sao khi nhìn thấy cây phong du và dòng sông trước mặt, tự nhiên Dần lại muốn ra ngồi nơi ghế đá dưới gốc cây một lúc, ngồi dưới gốc cái cây gần như suốt cả mùa thu lúc nào cũng chuyển gửi đến cô lời thăm hỏi mềm mại qua những quả phong du nhẹ hẫng mây trời.
Chiều thu thưa thớt nắng. Dòng nước lặng lờ, miên man lau mãi những tảng mây trắng nằm tựa hồ bất động dưới đám sông xanh thi thoảng vài cơn gió cấn bắc tạt về làm bờm xơm, rối ren những dợn nước thường chiều. Và cứ mỗi lần như thế, dăm chiếc lá muộn mằn còn lại của cây phong du rời khỏi cành, xoay tròn như làm xiếc trước khi rơi xuống mặt sông. Nhìn những chiếc lá phong du vàng đong đưa về xuôi trên mặt sóng, bất giác Dần nhớ đến mối tình không giáp mặt trong hiếm hoi đời mình mà chẳng khỏi phiền muộn bâng khuâng.
Trước đây vào lúc đã quá thì, Dần được chuyển ngành từ bộ đội về một nông trường bông. Việc chuyển ngành bao giờ cũng có lý do. Nhưng với Dần, cái điều chính được mọi người thông cảm và hiểu ngầm là thay đổi môi trường sống, tạo điều kiện để giúp cô làm tròn chức năng muôn đời của người phụ nữ là có người yêu và lập gia đình. Đấy cũng là quan niệm của Dần: phụ nữ dù làm đến tướng song không có chồng, không sinh con, đẻ cái, cô thấy lỗi nhịp và chống chếnh làm sao trong cuộc sống. Ở đơn vị cô trước khi chuyển ngành đa phần đều là lính trẻ, một số khác trong tuổi cô lại vợ con đùm đề không nó chỉ đến cầm tinh “cao số” của Dần. Cũng chẳng “làm ăn” gì được đám lính độc thân hầu hết đều xưng cháu với cô. Còn chuyển ngành bây giờ còn một chỗ duy nhất là nông trường bông, nếu không phải trở về địa phương. Tất nhiên là Dần chẳng dại gì chọn về làng cũ, nơi bất cứ người nào “đụng đến” đều bà con, đều dòng họ, nếu không “tam đại” thì cũng “tứ đời!”.
Thoát ô mồ lại vương ô mã, nông trường bông Dần về “trăm phần trăm” là nữ! Ngày Dần mới đến, thấy áo ngực, quần lót, đồ bộ… giăng đầy trên những dây phơi mấy dãy nhà tập thể, cô đã nhợn, đã ngờ. Và quả thật không sai, cái khoản “đực rựa” ở đây nghe chừng còn tệ hơn gấp mấy lần nơi đơn vị cô vừa chuyển khỏi. Hằng bao nhiêu dãy nhà tập thể rúc ra rúc rích toàn nữ là nữ, như hoa đặc cả rừng! Ở một nơi vậy nếu không già héo, chẳng sớm thì muộn cô cũng sẽ trở thành “pê đê” mất thôi.
Rồi sau đó, may nhờ có ông bác rể thương tình, một lần nữa Dần lại xin chuyển về đây.
Thay đổi môi trường công tác lần này, Dần thường xuyên tiếp xúc với đủ mọi hạng người, nam có, nữ có và trên một địa bàn dân cư khá rộng. Và rồi cầu được ước thấy, quả nhiên tình yêu đã đến với Dần. Đầu đuôi của tình yêu ấy là như thế này:
Vào một buổi sáng giữa mùa cưới năm ngoái. Dần định thu dọn giấy tờ ra về thì… một người đàn ông khập khiễng đi vào.
- Chị cho tôi xin… Á… Dần! Có phải Dần không? Trời ơi… Tại sao lại về ở đây hả?
Dần cũng mừng ré lên khi kịp nhận ra người đàn ông:
- Ủa, anh Tùng…! Trời đất! Anh cũng ở địa phương này à? Ồ.. ồ!
Tùng trước đây cùng đơn vị với Dần, sau đi chiến trường K bị thương ở chân và xuất ngũ khá lâu rồi. Không ngờ cô lại gặp anh ở đây. Thật đúng là quả đất tròn! Người đàn ông lau mồ hôi trán, trả lời:
- Thì quê mình ở đây chứ đâu. Sao Dần về làm được đây hay vậy? Trước gặp thằng Nhâm ở đơn vị, mình có hỏi thăm, nó bảo Dần về nông trường bông gì đấy mà.
Dần cười, đứng dậy pha trà mới vào ấm:
- Vậy mới hay! Nhưng từ từ rồi rõ. Bây giờ thì anh đến đây có chuyện chi vậy?
- Cũng… có tí chuyện - Tùng lưỡng lự trả lời rồi ngồi xuống ghế.
Dần đặt ly nước trước mặt Tùng, hỏi như khuyến khích:
- Anh uống nước. Mà chuyện gì vậy, nói em nghe có được không?
Trước đây ở đơn vị hai người khá thân nhau. Tùng lớn tuổi hơn Dần cô coi anh như anh của mình, ngược lại Tùng cũng coi Dần như em. Dần nghĩ điều anh ngấp ngứ, khó nói đây có lẽ vì chưa biết mình làm gì trong Ủy ban. Ông tướng này chắc chẳng mấy khi quan tâm đến chính quyền phường xã, chỉ đụng chuyện mới chạy đến nên vậy. Nghĩ thế, cô bèn cười nói:
- Em chỉ là nhân viên trong Ủy ban thôi, nhưng anh có gì, nếu được em xin nói giúp.
Tùng theo thói quen nào đấy lấy bao thuốc Jet, mở miệng đưa về phía Dần. Nửa đà đưa chợt nhớ ra cô, Tùng ngượng ngịu để gói thuốc xuống bàn lấy một điếu gắn lên môi mình, châm lửa. Ánh lửa ga tím xanh thấp thoáng quanh mấy chân râu màu hung hung đỏ.
- Cũng chẳng có gì! Mình định xin phép Ủy ban phường cho để trước nhà cái bàn bi - da vậy thôi.
- Tưởng gì!- Rồi Dần tiếp, vẻ băn khoăn” Mà việc ấy có phải xin phép ở đây không hay là chỗ khác?
- Ở đây nhất định ở đây, mình có thằng bạn phường bên kia sông đặt bàn bi-da nó cũng xin phép phường thế là đủ. Dần làm trong này có thể giúp mình được không? Nói là của bộ đội chiến trường K, bị thương, phục viên…
- Nếu đúng xin ở phường được, anh yên chí để đó, em sẽ nói giúp. Đoạn, Dần chuyển giọng nói tiếp: Nhà anh Tùng ở đâu vậy hở?
Tùng nhanh nhảu:
- Trong đơn có ghi! Rồi chừng nhận ra mục đích câu hỏi của Dần sau mấy năm xa cách, anh vội vã thêm: Mình ở đường Hoàng Hoa Thám, ngay trước sân ga, đến đó hỏi mình, ai cũng biết. Hôm nào rảnh mời Dần với… À quên, Dần có gia đình chưa nhỉ?
Dần mím môi, bẽn lẽn lắc đầu:
- Mảnh tình rách cũng chưa có chớ… nói chi đến chồng!
Câu trả lời với sự ngậm ngùi không giấu giếm của Dần khiến Tùng sực nhớ đến tình cảnh, ước mơ nơi người đồng đội cũ, người đồng đội nữ nhan sắc chẳng đến nỗi nào, nhưng lỡ thì vì những năm tháng đẹp nhất của đời con gái mình đã trôi qua trong chiến tranh. Tùng mở giọng đãi bôi:
- Ai biểu… kén lứa quá chi! - Rồi Tùng ra vẻ suy nghĩ, tìm tòi lung: “Thôi được rồi, mình sẽ giới thiệu cho Dần thằng em bạn mình. Nó khá đẹp trai và cùng tuổi Dần. Chỉ có cọp mới hạp với cọp mà thôi, được hử?
Dần thẹn thùng:
- Mà cọp lớn hay cọp nhỏ đó anh Tùng?
- Cọp bốn mấy… đó, tuy vậy mà còn “rin”, trai tân trăm phần trăm nhé!
Nghe Tùng nói thế, Dần cố giấu vẻ hồi hộp, tò mò:
- Anh… làm gì ở đâu vậy hở?
Tùng lại ra vẻ như thất vọng:
- À…à…cái này thì gay! Thằng ấy làm khảo sát thiết kế thủy lợi, ở trên rừng luôn, cứ như là …cọp thứ thiệt ấy, chịu không?
Nghe Tùng hỏi, Dần mỉm cười. Đã từng là bộ đội, cô không sợ xa cách và cũng chẳng ham trai “rin”, thậm chí có xấu tướng đi một chút cũng được, miễn rằng rồi ra yêu thương nhau chân thành là đủ, Dần chỉ mong có vậy. Cô nhìn Tùng bằng ánh mắt sớm tin cậy và bằng lòng:
- Thiệt hén! Nhớ là đàng hoàng nghe, anh Tùng. Đầu heo bây giờ mắc lắm đó (1).
Tùng giơ ngón tay trỏ cong như móc câu lên, hồ hởi.
- Ô kê! Mình chẳng cần ăn đầu heo, chỉ mong Dần giúp cho xong cái giấy phép xin mở bàn bi-da thôi.
Vậy rồi Dần và Hải - tên người thanh niên ấy - quen nhau qua anh Tùng, và cũng qua anh, tình yêu nhanh chóng đến với hai người theo những nhớ thương nhắn gửi ngày một tha thiết, sâu đậm hơn lên. Hải đi công tác luôn luôn làm anh và cô khó có điều kiện gặp nhau. Một lần, Dần suýt gặp được Hải, song vì bàn bi-da anh đang chơi đông người quá, phần khác vì bản tính cả thẹn và nhất là những lời trêu chọc thái quán của anh Tùng, nên cô không gặp được. Thậm chí, cô cũng chưa thấy tận mặt anh. Thật là tiếc cho Dần! Theo lời anh Tùng, lần ấy do anh lu bu trong việc nghi ngờ, tính tiền cho khách, nên quên nói với Hải rằng đang có cô đợi trong nhà. Và sau khi chơi, Hải đã ra về cùng bạn bè vào lúc mà anh bận rộn nhất.
Chẳng biết có phải tương tư không, sau nhiều lần “gặp hụt” người yêu ấy, Dần ốm phải nghỉ làm mất mất ngày. Người cô cứ lao đao như lá vàng chao trên mặt nước. Sau đó, Dần gắng gượng dậy và cố giấu anh Tùng về sự tiếc rẻ cuộc hội ngộ kia. Hôm khỏi bệnh Dần đến nhà anh Tùng chơi, anh có nói, Hải nhắn về giận anh vì tối ấy có cô trong nhà, anh đã không cho Hải hay. Tùng còn thêm: “Cuộc hội ngộ hụt đó đã làm bệnh sốt rét của Hải tái phát. Anh Tùng đã suýt soa xin lỗi Dần về chuyện để lỡ cơ hội “bằng vàng” của cả hai. Dần nghe anh Tùng nói mà bàng hoàng hết người. Sao “thần giao cách cảm” đến thế, anh ấy cũng đã bị ốm vì không gặp được nhau như mình. Giờ lại bị sốt rét. Anh sốt do lỗi anh Tùng nhưng đối tượng chính lại là cô. Mùa đông, sốt rét mà nằm nơi vùng rừng núi chắc là lạnh thấu xương. Càng nghĩ càng thương nên Dần đã gấp rút đan ngày đan đêm chiếc áo len cho Hải và nhờ anh Tùng gửi lên. Kích cỡ của chiếc áo len, Dần đan trong tưởng tượng cho đàn ông vóc dáng lý tưởng nhất, chẳng biết anh mặc có vừa không? Dẫu sao nhưng chắc sẽ ấm người mặc nó, bởi cô đan rất dày. Cùng theo chiếc áo len Dần cũng hỏi thăm, mua gửi lên một ít thuốc đặc trị sốt rét loại ngoại và kem đánh răng, xà phòng…
Hồi còn ở trong bộ đội cũng như khi chuyển ngành về đây Dần hầu như quanh năm suốt tháng chẳng hề tiêu pha gì ngoài những thứ thật cần thiết đối với người con gái sống độc thân. Bây giờ, việc mua sắm những món đồ hàng tháng gửi lên cho Hải đã trở thành một thứ hạnh phúc đối với Dần, và nó đã khiến cô nhiều khi không khỏi xao xuyến, thẹn thùng. Dần đã làm những việc ấy một cách tỉ mẫn và đầy thèm khát. Dần chẳng dám hỏi anh Tùng, Hải có hút thuốc lá không vì anh là chúa trêu ghẹo. Đàn ông tuy không nghiện hút Tết cũng phải phì phèo dăm ba điếu cho ra vẻ chứ. Nghĩ vậy Dần đánh bạo dùng tiền thưởng cuối năm của mình mua hẳn hai bao thuốc Jet và một chai rượu nữa - Tết mà - gửi lên cho Hải. Cầm hai món hàng đặc biệt giành cho đàn ông ấy ra khỏi chỗ mua một quãng, mặt mũi cô vẫn chưa hết nóng bừng. Cái cảm giác như uống phải rượu đó còn theo cô về mãi tới nhà. Vào đến phòng riêng của mình Dần cứ để hai thứ đồ dành cho đàn ông ấy lên bàn, ngắm nghía mãi. Càng ngắm, Dần lại càng không hiểu sao lại có những người phụ nữ lại tỏ ra không vui mỗi khi đi mua rượu cho chồng mình.
Thời gian thấm thoát, thu đi rồi lại thu về. Lá vàng cây phong du đã đến mùa hội ngộ nhưng Dần và anh vẫn hoài vọng nhớ, nhân thương qua mấy lần gặp hụt. Các lần đó khi vì do anh Tùng khi thì bận bịu với mấy bàn bi-da, lúc lại trêu đùa thái quá đến bản tính rụt rè, cả thẹn của cô. Giờ thì Dần đã không còn ốm trong những lần lỡ cuộc gặp nhau như vậy nữa, cô chỉ dồn nhớ thương mong đợi của mình qua các món hàng chăm sóc đầy ý nghĩa, đều đặn hàng tháng nhờ anh Tùng gủi lên cho Hải. Tình yêu qua mấy lá thư và lời nhắn gửi về đã khiến Dần thêm yêu đời, yêu công việc hẳn lên. Ước mơ của Dần ngày càng mãnh liệt hơn qua biết bao tờ kết hôn đã cấp từ tay cô cho những cặp vợ chồng trẻ. Cô đã chúc mừng họ bằng những nụ cười, những cái nhìn trìu mến, thật lòng chúc cho họ cũng có nghĩa là chúc cho mình, mai đây. Ngày nào đó, chắc chắn không xa, như tiên đoán của anh Tùng, một trong hàng trăm tờ kết hôn đẹp đẽ ấy sẽ dừng lại vĩnh viễn dưới tay Dần. Tờ kết hôn sẽ tự tay Dần nắn nót viết tên anh, tên cô cho đến ngày sinh tháng đẻ của hai người. Vật đầu tiên chia mừng với Dần lúc đó, chắc chắn sẽ là những trái phong du tròn mềm ghé lại nhẹ nhàng trên muôn vàn sợi chân trắng màu tơ nõn.
Một lần, biết là sắp tới chuyến có người lên chỗ anh Hải, Dần đến, anh Tùng đi mua cơ, lơ gì đó ở Sài Gòn, vắng nhà, sợ lỡ chuyến đi, Dần đành gửi lại hàng cho chị Tùng.
- Anh Hải à! Nhà tôi có quen anh nào ở khảo sát thủy lợi tên Hải đâu. Mà bạn của anh ấy theo chỗ tôi biết cũng chẳng có ai tên vậy cả. Thôi cô đã nói thế thì để đó, có ai đến lấy tôi sẽ chuyển giúp, còn không thôi.
Khi về lại phòng, lúc tìm xem lá đơn xin mở bàn bi-da anh Tùng, Dần thất tuồng chữ những lá thư đầy thương nhớ Hải gửi - dù cố làm khác đi- với chữ trong đơn này vẫn chỉ là một người.
Biết ra vậy, Dần hoàn toàn không trách anh Tùng. Cô chỉ buồn và tiếc nuối một năm qua đầy thương nhớ, đẹp đẽ của mình.
Chiều vẫn tiếp tục nghiêng xuống giữa hai bên bờ sông rộn rã tiếng đời. Ngồi trên ghế đá dưới cây phong du, Dần lấy đôi que ra đan nốt chiếc áo len cho trẻ sơ sinh mai này của mình. Người nữ trong giấy kết hôn đọc vừa rồi cùng tuổi với Dần đã khiến những mũi kim đan trên chiếc áo của cô lại trở nên thiết tha, hy vọng. Những sợi len trắng nõn tơ trời cũng màu với trái phong du dần dần biến dạng vào chiếc áo be bé, xinh xinh.
Chiều càng xuống càng đẹp, dòng sông trước mặt Dần càng trở nên êm đềm với những chiếc lá phong du vàng xuộm đó đây trên mặt nước. Ai biết mai này chúng sẽ trôi về đâu, tấp về đâu trên dòng sông nhiều bờ, lắm bến. Trên bờ sông, những trái phong du lại tiếp tục bung ra đầy trời, như trong một hội “tung còn” nơi nào miền núi. Tưởng như những trái ấy bay ra từ Dần và chiếc áo bé con, đôi que đan động đậy, chứ không phải từ cây phong du. Những trái phong du cứ như muôn tín hiệu tròn mềm phát đi, lan mãi, bay hoài trong không gian mùa thu đầy gió chiều nắng muộn.
L.N.N
__________
(1) Ở vùng này người ta thường đi lễ cho người mai mối bằng đầu heo.