Lần nào cũng vậy, hễ thấy Đức đến là bà mẹ U - Đon ấy cứ nhìn anh chằm chằm rồi nói:
- Thằng Pia Rết với mày giống nhau như hai giọt nước, nhìn mày mẹ nhớ nó quá.
Những lúc đó Đức không dám nhìn thẳng vào mắt mẹ. Anh sợ mẹ xúc động không cầm nổi nước mắt. Mà để mẹ khóc thì phiền muộn quá, cháu Chia Tai, con trai Pia Rết sẽ ôm chầm lấy mẹ khóc to có trời mà dỗ được. Đức cố lảng đi, nhắc lại cái câu an ủi chung chung thường ngày vẫn nói:
- Đừng buồn mẹ ạ! Rồi anh ấy sẽ trở về thôi!
- Về! Liệu có còn mà về không con?
Mẹ thất vọng thở dài, đưa mắt nhìn xa xăm. Trời chiều nắng vàng như mật, những chú chim non tránh nắng đuổi nhau ríu rít dưới tán cây mận cuối vườn. Bàn tay mẹ vẫn vuốt đều trên mái tóc quăn của Chia Tai.
- Ra ngoài kia chơi con, để bà nói chuyện.
Chia Tai cúi dạ rồi chập chững bước đi, mẹ quờ tay lên bàn thờ lấy lá trầu đựng trong chiếc đĩa sứ, đưa con dao sắc như lá mía bổ đôi miếng cau, bỏ vào miệng vừa nhai vừa nói:
- Con à, thằng Pia Rết hắn hiền khô vậy đó. Thế mà hắn cũng bị bắt đi làm lính cho Pôn Pốt... Từ ngày giải phóng đến nay đêm nào mẹ cũng trằn trọc mãi, cứ nhắm mắt một lúc là thấy thằng Pia Rết hiện ra đứng trừng trừng nhìn mẹ ngoài cửa sổ. Mẹ chạy đến thì không thấy hắn đâu nữa...
Mấy giọt nước mắt của mẹ trào ra. Mẹ vội vàng đưa mối khăn cà- ma quệt nhanh một cái. Thế mà Chia Tai vẫn nhìn thấy được, nó bỏ lăn mấy cục đất nặn hình con bò, con trâu làm đồ chơi ngổn ngang trên cát chạy đến ôm chầm lấy mẹ.
- Bà! Bà... - Chia Tai vừa lay vừa gọi - Bà khóc à?
- Đâu! Bà có khóc đâu. Cháu ra chơi đi.
- Hư! Hư... - Chia Tai ngúng ngoắng đầu nũng nịu - Bà đừng khóc nữa nghe.
Và bất chợt nhớ ra điều gì, Chia Tai mở căng đôi mắt nhìn cây Chăm-pa nở hoa đỏ rực.
- Bà ơi! Sao chưa thấy ba về
Mẹ chưa kịp trả lời thì Chia Tai đã bước đến nằm gọn trong lòng Đức.
- Pu Con Tóp à! Sắp đến tết Chô-thơ-nam-thơ-mây chưa?
- Mười ngày nữa cháu à
- Tết vui nhiều nhiều Pu Con Tóp há. Bà bảo tết ba Chia Tai về. Ba về cho Chia Tai quần áo đẹp nè. Kẹo nè. Dẫn Chia Tai đi chơi nè. Lên phố chụp ảnh đẹp nữa...
Chia Tai vẫn liến thoắng nói về ngày vui của em bằng tất cả sự ngây thơ trong sáng và hồn nhiên của cái tuổi đáng được nuông chiều. Em đâu biết rằng mỗi lời nói của em vô tình làm cho lòng người lớn buốt đau. Mẹ cúi xuống vờ nhặt một hòn đất để giấu đi sự xúc động. Còn Đức, khuôn mặt anh trở nên ưu tư và có cái gì đó day dứt trong lòng. Anh cắn chặt vành môi, cúi xuống đặt lên trán Chia Tai một cái hôn, rồi chụm đầu nó day qua day lại.
* * *
Mẹ chỉ còn mỗi mình Pia Rết là con trai độc nhất. Năm bảy lăm bọn Pôn-pốt Iêng-xa-ri lên nắm quyền, Ăng-ca đến nhà gọi chồng mẹ đi học, vì trước kia ông là du kích mật, nuôi giấu cán bộ trong nhà để đánh Lon Non. Mẹ tưởng chồng đi một hai tháng sẽ về. Thời gian cứ dài mãi ra, mà chồng mẹ vẫn không tin tức. Phum mẹ có lệnh phân tán mỗi người một nơi, ở tập trung theo tổ sản xuất. Mẹ và Thơ Mây vợ Pia Rết gặp may là được ở cùng một đội. Còn Pia Rết thì ở đội khác cách mẹ bốn vườn thốt nốt, mắt nhìn có thể thấy, thế nhưng gia đình mẹ thỉnh thoảng mới được gặp nhau.
Vào đầu năm bảy sáu, người ta mang đến cho mẹ một cái tin: Chồng mẹ bị giết ở rừng Ô-ran cùng ba trăm người khác. Mẹ đã nhiều lần tận mắt chứng kiến cảnh bọn lính và Ăng-ca giết người bằng búa, bằng dao chỉ vì người ta kêu đói, kêu khổ, đến xin thuốc khi ốm đau, hoặc một câu chuyện vô tình nào đó phảng phất đôi nỗi buồn phiền… Nhưng mẹ chưa bao giờ nghĩ rằng chồng mẹ bị giết. Suốt một cuộc đời ông lam lũ hết trèo thốt nốt thuê, cuốc mướn, lại ở đợ cho bọn nhà giàu trong sóc. Kiếm được đôi đồng ria lại dành nuôi cán bộ trong mấy năm “cách mạng” gặp khó khăn.
Cái tin đau đớn đó đến với mẹ đột ngột quá. Mẹ chỉ biết kêu lên một tiếng rồi gục đầu xuống chiếc áo cũ của chồng, trong đó còn vương lại hơi ấm mồ hôi. Mẹ thiếp dần đi trong tiếng nấc. Bên ngoài, ánh nắng chiều hấp hối vàng nhạt, bầu trời trở nên u ám lạ thường. Và âm vang tiếng khóc loãng vào không gian..., chỉ có nước mắt là chưa dễ khô. Nước mắt trào ra còn đọng lại trên khóe mắt. Lồng ngực già cỗi của mẹ chưa vơi những cơn buốt tê đau đớn. Thì chính hắn, chính tên Ăng-ca trước kia nằm hầm trong nhà mẹ, chính cái thằng mà mẹ đã bớt đi những miếng ăn nuôi nấng nó, bớt đi những giấc ngủ của tuổi già canh cho nó được trọn đêm, nó đang đứng dạng chân trước mặt mẹ. Ngày đó nó có vẻ hiền lành chứ không như bây giờ. Té ra thời gian trên đất này đã cho con người nếm những câu trả lời thật là cay nghiệt... Có phải hắn đó không? Hắn đến đây làm gì? Để nói với mẹ những lời an ủi ư! Không! Mẹ không cần những lời nói ngọt ngào đặc sánh như mật, mà khi uống vào có vị đắng vị cay. Hãy xéo đi! Tao không cần gì hết. Mẹ định hét tướng lên, chồm lại vả vào cái mặt vô ân vô nghĩa của hắn. Nhưng mẹ kịp kìm lại, đưa mắt nhìn hắn, hắn vẫn đứng trân trân trước mắt mẹ, chiếc ba toong nhịp lên nhịp xuống.
Khóc hả? Im đi. Khóc là có tội với Đảng, có tội với lãnh tụ Pôn-pốt. Chồng bà chống Ăng-ca. Đáng lẽ gia đình bà cũng bị trừng trị, nhưng tôi nghĩ đến hồi trước bà có nuôi tôi, tôi tha cho bà... Nhưng muốn vậy thì ngay bây giờ, thằng Pia Rết phải ra tập trung ở trụ sở để ngày mai nhận súng.
Thế là dù muốn hay không Pia Rết cũng không thể không bận bộ quần áo lính Pôn-pốt màu đen. Chúng bắt Pia Rết đi. Mẹ chạy theo khóc lóc van xin
Chúng hét: Cút về không lại cho ăn đất bây giờ. Thằng lính áo đen bằng tuổi con mẹ, phang mẹ một gậy, vai mẹ sà xuống. Mẹ ngất đi. Trong mơ màng, mẹ thấy trước mắt mọi cái quay vù vù. Thốt nốt xanh tươi bật gốc, những khuôn mặt quen biết từng hàng, từng hàng, trên con đường đất mịt mù bụi lũ lượt kéo đi. Họ đi bằng hai tay... chồng mẹ đứng đó, nhìn mẹ cười, khóc. Họ định chạy đến với mẹ nhưng đôi chân như bị chôn chặt trong đất... và máu... ôi máu nhiều quá, máu nhòe hết mọi khuôn mặt, nhòa hết mọi màu xanh, máu như một cơn mưa đột ngột từ trong những cụm mây đen đặc rơi xuống, máu từ dưới đất phụt lên. Nào biển, nào sông tất cả đỏ máu cuồn cuộn chảy... từng đoàn người bị trói tay, trói chân đứng chật ních sân chùa. Những tiếng khóc, tiếng thét nổi lên. Bọn lính cột mọi người thành một hàng dài, lột hết quần áo, rồi đứng cười hô hố, chỉ trỏ, khoái trá. Chúng lấy từng hòn đá cuội to thi nhau nhằm đầu, ngực bụng những người bị trói mà ném tới tấp. Tay chỉ huy nhìn đau đáu cô con gái có thân hình thon thả trần truồng đứng trước mặt. Hắn cười khanh khách, cười chán hắn thét:
- Bắn.
Thế là tiếng reo ầm ầm thoát ra từ cửa miệng của bọn lính loắt choắt. Súng nổ đồng loạt, những cái đầu gục xuống, rống to. Máu trào ra từng tia nhỏ li ti bắn lên cao tưởng như thấu mặt trời, mặt trời cũng đỏ ngầu máu, máu như một thứ ánh sáng kỳ quặc soi chập chờn những khuôn mặt dã thú của bọn lính đang reo hò nhảy nhót, và soi cả những khuôn mặt đau đớn của những người đang trút giây thở cuối cùng...
- Trời ơi!
Mẹ bật kêu thành tiếng rồi vùng dậy ngơ ngác nhìn quanh, hớt hải chạy khắp công xã, vừa chạy vừa la, chửi bới khóc than. Kêu chán mẹ lại cười, quần áo rách cả tơi, đầu tóc bù xù, tấm thân rũ rượi. Chạy mệt mẹ dừng lại bên những cây thốt nốt cụt ngọn ôm ghì lấy nó, vuốt ve nó, nói với nó những lời âu yếm như nói với chính đứa con của mình. Dân phum ra đưa mẹ về. Mẹ cào cấu, chửi bới họ...
Mấy hôm sau sức khỏe mẹ dần dần hồi phục. Ăng-ca vẫn không để cho mẹ yên. Chúng bắt gia đình mẹ dời sâu trong rừng. Ở đó một thời gian. Thơ Mây sinh được đứa con trai. Thằng Chia Tai kháu khỉnh, đó là niềm vui duy nhất làm dịu đi một phần nỗi đau triền miền trong lòng mẹ. Mẹ cứ tưởng rằng sẽ được sống mãi với niềm vui ít ỏi mỏng manh còn lại đó. Nhưng, hạnh phúc đến muộn mằn và bao giờ cũng dễ bay đi, cả đời mẹ trải qua vẫn thế. Còn khổ đau thì lởn vởn vây quanh lấy mẹ, chập chờn nhập cuộc và bao giờ hắn ta cũng thắng. Thơ Mây con dâu mẹ, bỗng chốc bị bọn lính Pôn-pốt kéo đến bắt đi. Đi về đâu? Sống hay chết? Mẹ làm sao biết được.
Rừng núi vẫn im lặng, thản nhiên trước nỗi đau xé ruột của mẹ. Mẹ định chạy lên nhà tên Ăng-ca túm lấy cổ nó cào cấu cho hả giận. Nhưng nghĩ lại cũng chẳng có ích gì. Nó có súng. Nó có quyền. Nó cho ăn thì mẹ được ăn. Nó bắt mẹ chết thì mẹ phải chết. Nó đuổi mẹ thì mẹ phải đi. Dù nơi ấy là rừng, là núi, hay hang cùng. Mẹ lặng yên xua tan ý nghĩ rồ dại bất chợt đó và ngày ngày lại thui thủi bên đứa cháu nội. Đi đâu mẹ cũng bế nó đi, không bao giờ lơi nó ra. Bọn Ăng - ca cũng như lũ quạ đen rình rập đâu đó chờ giật cướp những niềm vui nhỏ nhoi của mẹ.
Cuộc sống ấy kéo dài đến đầu năm bảy chín. Bỗng buổi chiều trên đường đi rẫy về mẹ thấy một tốp người có súng đứng ngang đường, trong công xã thì súng rộ lên. Họ nói gì vậy? Con tóp Việt Nam đánh Pôn-pốt, cứu nhân dân Cam-pu-chia. Họ chắp tay chào mẹ - Xốc-xơ-bai - Nói đi nói lại mãi câu đó… Thế rồi mẹ được đưa về phum cũ. Nhà bị bọn Pôn-pốt đập phá tan hoang, một chiếc bát ăn cơm cũng không còn nguyên.
Bộ đội Việt Nam dựng lại cho mẹ một căn nhà tre và thỉnh thoảng Đức đến thăm mẹ, giúp mẹ gánh nước, xới rau, cho mẹ thuốc sốt, hoặc làm một việc gì đó… Cứ mỗi lần nhìn thấy Đức là mẹ lại nhắc đến Pia Rết.
- Con à? Hắn cũng như con vậy đó, mái tóc quăn, thân hình cao to chẳng khác chi người cầm tạ, dáng đi thoăn thoắt như con cá Biển Hồ…
Còn Chia Tai thì nằm gọn trong lòng anh.
- Sao chưa thấy ba cháu về Pu-con-tóp?
Lần chia tay cuối cùng với mẹ, mẹ vẫn chỉ nói với Đức một câu:
- Con à! Hắn cũng như con vậy đó. Thương mẹ thì nhớ tìm về giúp mẹ con à…
* * *
Mùa khô.
Trung đoàn 165 của Đức nhận lệnh cùng các đơn vị quân đội cách mạng Cam-pu-chia truy quét ở núi Ô-ran. Trên suốt dọc đường hành quân Đức bắt mười mấy toán tù binh, có tên ngay từ đầu gặp bộ đội đã bỏ súng đầu hàng, có tên tình nguyện dẫn ta đến cứ điểm của bọn chúng. Nhưng cũng có tên ngoan cố bắn đến viên đạn cuối cùng. Hình như lúc nào Đức cũng nhớ đến lời mẹ dặn và cố đảo mắt tìm xem trong đám đông kia, có người nào giống Pia Rết không? Không thấy. Anh chợt nghĩ:
Sau mấy năm cầm súng cho Pôn-pốt, liệu Pia Rết còn giữ được những gì đẹp đẽ trong tâm hồn mà người mẹ đau đớn kia đã bồi đắp cho Pia Rết không. Hình ảnh chúng giết cha, đánh đập mẹ còn đọng lại trong trí nhớ Pia Rết hay đã bị dũa mòn rồi. Khi đám lính áo đen cầm trong tay con dao, cái búa nện vào đầu những người dân mà Pia Rết cũng thừa biết họ không có tội, hoặc khi chúng cầm đứa trẻ trong tay, mặc cho nó khóc, nó giãy dụa, cứ thế mà quăng xuống lòng giếng, những lúc ấy liệu lòng Pia Rết có quặn đau, có rươm rướm máu không? Đức thấy có cái gì đó cộm trong lòng. Anh cảm thấy nỗi hy vọng kia mong manh quá đỗi. Có lúc Đức lại nghĩ: Giả sử Pia Rết trở thành một tên đao phủ khét tiếng, vậy trong tâm hồn hắn liệu có thể còn sót lại chút ít lương tri, bất chợt thức tỉnh làm cho hắn bỗng nhớ đến cha, đến mẹ, đến vợ đến con. Biết đâu trong trận đánh sắp tới, trong đoạn đường mà Đức sắp đi qua ở các lùm cây Via-lơ lúp xúp. Pia Rết ẩn nấp chĩa súng vào người Đức. Hoặc là trong một trận đánh gặp gỡ giữa rừng. Buộc lòng một viên đạn từ đầu nòng súng tấn công của Đức lao vào ngực Pia Rết trước, hắn ngã xuống. Sau đó Đức mới nhận ra những nét hao hao trên gương mặt hắn. Nghĩ đến đây lòng Đức bỗng quặn đau. Giữa bao nhiêu người lính áo đen mà Pôn-pốt xua bắt, tha hóa, lừa phỉnh, đẩy đến vực hố tội ác, liệu có thể tìm nhận và gọi về Pia Rết được không?
Thời gian cứ mải miết trôi. Ở gần các rừng dầu, cây Xốc-lơ mấy dạo nở hoa. Biết bao người đã theo tiếng gọi của lương tâm và đất nước Cam-pu-chia thân yêu trở về, nhưng trong những khuôn mặt Đức gặp, anh không tìm thấy Pia Rết. Anh vẫn cùng đồng đội hành quân. Biên giới Thái càng xích gần trước mặt, hạnh phúc của nhân dân lại lớn thêm mãi ra phía sau lưng. Mỗi lần nhớ tới lời bà mẹ lòng anh bỗng cồn cào...
Ngôi nhà thấp lè tè mới dựng của mẹ bên cạnh những ngôi nhà sàn to có đầu rắn Na Ga. Chiếc phản kê tạm mấy tấm ván cháy sém loang lổ mà mẹ thường ngồi kể chuyện. Mấy cây thốt nốt xòe lá ở trước sàn. Tất cả hiện rõ trước mặt anh cùng với lời mong của mẹ.
Hơn một năm Đức trải qua bao nhiêu gian khổ. Những ngày khát cháy mùa khô, không có nước tắm. Những cuộc truy kích mệt lả, cơm không đưa được vào miệng. Những cơn sốt rét rừng... Hình như chính lời mong ấy tựa một cái mốc cắm vội ở đâu xa lắc, đang gọi Đức, thúc giục Đức vượt qua những gian lao, những khốn khổ mà người lính ở sát biên giới Thái này đang chịu đựng
Cuối mùa khô, địch hoạt động tăng dần. Đơn vị đóng gần sát biên giới. Lại một trận đánh nữa, trận đánh bọn Pôn-pốt từ đất Thái vượt biên giới luồn vào. Đức lại nghĩ đến mẹ. Lẽ nào Pia Rết lại bị bọn chúng dẫn qua đất Thái nhơ nhuốc, xấu xa, và bây giờ Pia Rết đang bị bọn chúng xua trở về quấy rối.
Trận đánh bọn luồn rừng sắp kết thúc. Những tên tù binh bị bắt đi ngang qua trước mặt Đức, kéo thành một hàng dài lếch thếch, đen xỉn từ quần áo đến mặt mũi, cắm đầu lặng lẽ lê từng bước chân. Đức nhìn chằm chằm vào đoàn tù, đến người cuối cùng anh vẫn không nhận ra ai có dáng như mẹ kể... Hay Pia Rết đang ở điểm Pốc Cô. Có thể lắm.
Đó là một căn cứ phía trước của bọn Pôn-pốt. Đơn vị Đức được lệnh đánh chiếm cứ điểm ấy. Từ nửa đêm, đơn vị anh đã chiến đấu suốt mười giờ ròng. Ban đầu địch chống cự quyết liệt, nhưng cuối cùng không chịu nổi sức tấn công ồ ạt của cánh quân binh đoàn bạn phối hợp nên tháo chạy tán loạn, đứa chết, đứa bị thương, đứa bị bắt lầm lì bước đi. Đội quân y băng bó cho những tên còn sống. Chỉ còn lại một cái hầm được xây dựng kiên cố, chốc chốc đạn xối ra từng loạt, mặc cho các đồng chí trong đội địch vận bắc loa gọi khàn cả tiếng. Đại đội trưởng Thục bò đến công sự Đức. Anh nói:
- Cậu phải chỉ huy trung đội đánh xốc lên mà hốt gọn.
Trước mặt Đức biên giới mờ đi trong khói. Mới gần mười giờ mà nắng đã gay gắt. Cũng là ngọn gió lùa từ dưới xuôi lên mà buổi sáng thì rười rượi mát lành còn bây giờ thì khô cháy, bụi khói cuộn bốc.
- Trung đội 9 xung phong!
Sau mệnh lệnh ấy các chiến sĩ lao lên. Từ trong công sự cố thủ địch vẫn bắn đại liên ra từng điểm xạ dài. Trung đội Đức mới vượt được ba mươi mét thì chững lại vì địa hình quá trống. Khẩu đại liên địch vẫn ăng ẳng sủa, đạn găm phầm phập vào thân cây cày tung đất.
Đức hét to, giọng anh lẫn trong tiếng súng:
- Trịnh diệt hỏa điểm.
Trịnh không trả lời chỉ gật đầu nhè nhẹ cứ thoăn thoắt bò lên sau thân cây bị pháo phạt gãy. Trịnh giương súng lấy đường ngắm chưa kịp bóp cò thì Đức gọi giật trở lại.
- Đừng bắn trúng. Bắn cảnh cáo.
Trịnh quay người mở to mắt ngạc nhiên. Môi anh mấp máy như muốn nói điều gì nhưng chợt nhận ra đây là trận địa, Trịnh lặng lẽ quay nhanh về phía trước. Anh bóp cò. Quả B40 nổ sát nách công sự địch, chúng hoảng hốt nhao lên chạy dạt về đoạn hào phía sau. Đức bỗng khựng lại khi nhìn thấy thằng địch có mái tóc quăn, thân hình to cao như hộ pháp đang chạy sau cùng kia... chính nó sao? Chính nó. Nó là con trai của bà mẹ U-Đon rồi. Đức hạ lệnh:
- Khép chặt vòng vây bắt sống.
Anh khum hai bàn tay làm loa dõng dạc gọi từng tiếng:
- Hãy ra hàng đi, Mặt trận và Việt Nam cứu sống.
- Hãy ra hàng đi, Mặt trận và Việt Nam không giết.
Bọn địch vẫn xô nhau chạy dạt về phía sau, vừa chạy vừa quay súng bắn lại. Đức cắn chặt vành môi nén cơn giận. Giết chúng không khó, chỉ cần nổ một trái B40 nữa là tan xác hết. Nhưng cái khó là phải gọi chúng ra hàng, bắt sống chúng, cứu được chúng, và đối với anh, anh còn có lời mong của một người mẹ mà anh chưa đáp lại. Đức tiếp tục cho đại liên bắn kiềm chế.
- Hãy ra hàng đi, Mặt trận,Việt Nam không giết!
Chưa dứt câu, đạn đã vèo vèo cắm phập trước mặt. Một chùm cúc dại xơ xác. Một tiếng nổ long óc của quả M79 cạch đâu gần đó. Đức thấy mu bàn tay mình buốt đau, máu trào ra thấm đỏ vạt đất. Đức chưa hết bàng hoàng thì một tiếng nổ nữa tiếp theo. Anh cúi người xuống vừa tránh mảnh vừa nhìn vết thương. Đức không ngờ anh bị thương vào những phút này, những phút mà trận đánh có thể không cần đổ một giọt máu mà anh đang đổ. Bọn giặc kia anh muốn cứu nó thì chính nó lại bắn anh. Nỗi bực dọc nén lại giờ đây bật lên làm cổ Đức tắc nghẹn. Anh muốn thét to hạ lệnh cho đồng đội xông lên tiêu diệt ngay chúng. Nhưng chợt nghĩ đến một lời giục gọi nào đó, anh lại thôi. Cuộc chiến đấu mà đồng đội Đức và các bạn Cam-pu-chia đổ máu đã mang lại biết bao hạnh phúc vì đất nước này, phải, nhưng vượt lên những điều ấy, còn có cái gì đó lớn lao hơn nữa, lâu dài hơn nữa, nhân loại hơn nữa...
- Anh Đức bị thương?
Một cậu chiến sĩ trẻ ở tiểu đội ba thét:
- Quỷ, cho tiêu đi cho rồi! Chính sách gì, lắm chuyện.
- Không được. Đức hạ lệnh - B40 bắn cảnh cáo một quả! Đại liên bắn chặn. Thông tin gọi xin cối dập chặn đường rút ở mé rừng phải.Tiểu đội hai vòng từ bên trái đánh từ phía sau lên.
Quả thế, khi súng nổ từ phía sau lưng, bọn địch nhốn nháo, chúng hò hét nhau quay nòng đại liên bắn trả. Nhưng chỉ được một lúc rồi yếu dần. Trung đội Đức ào ạt xông lên.
- Đầu hàng đi! Không giết đâu!
Một thằng, hai thằng bốn thằng... Vẫn chưa thấy tên lính ấy đâu. Đức hồi hộp chờ đợi. Năm thằng, sáu thằng... dưới công sự im phăng phắc. Tại sao vậy? Thằng giặc tóc quăn mà Đức nhìn thấy trước đó chết rồi sao? Không, Đức không tin như vậy. Anh đưa mắt hỏi tên tù binh lên sau cùng.
- Còn ai không?
- Dạ, thưa... hết rồi. Hắn lẩy bẩy trả lời ngập ngừng. Đức bước đến chĩa súng xuống miệng hầm kéo một loạt, phía dưới có tiếng động.
- Lên đi, không giết đâu.
Đức gọi rồi cắp súng đứng lùi lại một bước. Tên địch lom khom chui lên. Chính hắn rồi, mái tóc quăn bồng bềnh thân hình cao vạm vỡ. Hắn cầm cái gì trong tay vậy? À, một quả lựu đạn. Đức vừa quay súng thì bên trái, Trịnh từ xa co người với một động tác võ anh lao đến đánh rớt quả lựu đạn trong tay tên lính, và rất nhanh chụp vất ra xa. Tên lính hoảng hốt lùi người bỏ chạy.
- Đứng lại!
Nó vẫn chạy. Đức giương súng bắn găm. Tên địch loạng choạng chúi xuống, viên đạn cắm phập vào chân. Bây giờ Đức mới trông rõ khuôn mặt hắn, cái cằm của hắn bạnh ra, hai con mắt trắng dã lộ những tia máu đỏ, đôi môi khô đét lấm lem bụi đất. Đức cúi người, lấy chiếc bình toong còn lại những giọt nước cuối cùng đổ lên môi hắn. Hắn mấp máy một cách thèm thuồng, thoáng mở nụ cười khó hiểu rồi trừng trừng nhìn Đức.
- Sao không giết ta đi?
- Giết mày làm gì? Mặt trận và Việt Nam không giết người đầu hàng.
- Hừ! Không giết. Hắn nói lại một cách lạnh lùng, Ăng-ca không bao giờ nói sai.
Đức ngỡ ngàng trước câu nói của tên giặc. Cho đến bây giờ mà hắn còn nghĩ như vậy ư? Thật không gì khủng khiếp bằng khi tâm hồn con người bị nhuốm đen.
Anh nhìn nó. Nó vẫn lạnh lùng. Anh hỏi:
- Tên là gì?
- Pia Rết.
Ồ! Thằng Pia Rết của người mẹ đau đớn kia là tên này ư. Anh đã tìm ra được nó. Anh đã đáp lời mong của bà mẹ ấy. Ôi, thế nhưng liệu người mẹ mỏi mòn chờ đợi có chịu được nỗi đau tươi rói mới nảy này không, khi biết đứa con của mẹ, trong những năm cầm súng cho Pôn-pốt đã trở thành một tên tử thù của nhân dân.
- Tên gì? Pia Rết à? Đức hỏi lại.
- Đúng! Pia Rết.
- Quê đâu?
- Công-pông-xpư
- Sóc nào?
- U - Đon
Thôi đúng rồi! Chính nó.
- Cha mẹ bây giờ ở đâu có biết không?
- Cha không biết ở đâu. Mẹ chết từ hồi còn chưa biết nói. Đức trố mắt nhìn hắn:
- Mẹ chết từ lúc chưa biết nói?
- Phải?
- Thật không?
- Thật. Không ai nói dối làm gì cái ấy.
À, thế thì không phải... Ôi, trong đội áo lính đen man rợ bị bọn Pôn-pốt lừa phỉnh và xua bắt đi giết người có biết bao cái tên Pia Rết.
Đức thở phào đứng dậy, anh bàn giao số tù binh bắt được cho đơn vị bạn rồi lên đường. Biên giới ngơi tiếng súng trả lại cho rừng cái yên tĩnh vốn có hoa cúc dại trên đồng cỏ vàng rực dưới nắng đã sang trưa. Phía trước đoàn quân là con đường ngoằn ngoèo dẫn lên đỉnh núi mút tầm mắt thoang thoảng hương cau từ thung lũng Pu-sin đưa tới ngạt ngào.
* * *
Một tháng sau Đức ra viện. Trước khi trở lại đơn vị Đức xin phép đồng chí viện trưởng tạt qua trại tù hy vọng biết đâu có thể tìm ra được tin gì về Pia Rết.
Những ngôi nhà lợp lá thốt nốt của trại tù binh nằm dài theo con đường đất. Những bụi hoa pơ-lim trước sân nở đỏ rực. Từng tốp, từng tốp người tù ngồi túm tụm lên các chiếc ghế được ghép tạm bằng thân gỗ rừng, rì rầm về một chuyện vui nào đó và thỉnh thoảng họ lại cười rộ lên.
Đức bước qua chỗ họ, anh đến thẳng văn phòng nhờ người quản lý xem hộ danh sách. Sau khi cắm cúi dò từng tên trong tập hồ sơ dày, anh ta ngẩng đầu lên nhìn Đức trả lời:
- Chỉ có tên Pia Rết mấy anh đã bắt hôm đó thôi….
Qua đi phút hồi hộp. Đức thấy lòng mình nặng nề và trống trải. Pia Rết còn không? Còn, không biết sao Đức tin như vậy. Một con người hiền lành và khổ đau như người mẹ U-Đon kia đã bú mớm, hát ru cho con mình khôn lớn, ôi, trong giọt máu mà mẹ đã dưỡng sinh khó lòng một lúc mất đi những gì quý giá mẹ vun trồng từ tấm bé.
Đức chào người quản lý rồi lững thững dạo trong sân. Bỗng anh gặp một thằng bé thân hình loắt choắt, có lẽ mười ba, mười bốn tuổi là cùng. Đức bước lại gần nó. Ô, nó cũng là một tên lính áo đen Pôn-pốt sao?
- Vào trại lâu chưa? Đức hỏi.
Hình như nó không nghe tiếng Đức, nó vẫn nín thở lò dò bước, đưa hai ngón tay như hai gọng kìm, tiến đến đuôi con chuồn chuồn rồi bất thần kẹp lại. Con chuồn chuồn chỉ đập cánh rèn rẹt rồi nằm im. Ánh mắt thằng bé lộ vẻ sung sướng. Bây giờ nó mới ngẩng đầu lên nhìn Đức.
- Chào ôn. Đức chào và hỏi - Vào lâu chưa?
- À, mới thôi. Nó trả lời.
- Tên là gì vậy?
- Cam-pu-chia thôi.
Đức nhìn nó ngạc nhiên. Anh hỏi lại:
- Tên cơ mà?
- Ừ tên đó, Cam-pu-chia thôi.
- Bố mẹ ở đâu?
- À, để nhớ đã... Nó nhíu mày dáng nghĩ ngợi - À, nhớ rồi. Bố là lãnh tụ Pôn-pốt vĩ đại, mẹ là đất nước Cam-pu-chia anh hùng.
Nó trả lời một thôi như đã được học thuộc lòng.
Bây giờ Đức chợt hiểu. Té ra chúng nó đầu độc sự cuồng si bắt đầu như thế này đây. Anh lại hỏi:
- Giết được nhiều người chưa?
- Ít ít thôi, hai người. Vừa trả lời nó vừa đưa mắt nhìn đi đâu, xa lắm.
Ngày Pia Rết bị bọn Pôn-pốt bắt đi chắc lớn hơn tên lính loắt choắt này.
Đức lùi ra một bước, tần ngần nhìn nó. Bỗng dưng Đức thấy nó dừng mắt lại nhìn đoàn người ở chợ về. Các chị, các em cười vui ríu rít. Đi sau cùng là mấy bà mẹ đội rổ đựng đầy bánh pờ-lam trên đầu, đôi tay đánh đằng xa bước nhanh trên con đường cái có hai hàng thốt nốt tỏa bóng râm. Một bà mẹ ngoảnh vào trại, không biết bà trông thấy thằng bé hay tốp người ngồi ở phía gốc sân. Bà dừng lại.
Thằng bé đứng yên lặng, hai tay buông thõng nhìn ra chằm chằm. Trong đôi mắt thằng bé đang dấy lên một điều gì đó khác lạ. Một lúc sau Đức hỏi?
- Mẹ ôn đó à?
Nó không trả lời, hai vành môi cắn chặt lại với nhau, rồi tự nhiên nó òa khóc, nước mắt nó giàn dụa, tuôn xuống hai gò má, đọng lại trong hố mắt sâu. Bây giờ thì trên nét mặt nó, toát lên một cái gì khác hẳn với lúc ban đầu Đức gặp. Hình như người mẹ ngoài đường kia là ngọn gió lành thổi bay lớp tro đen mà Pôn-pốt đã phủ lên đầu óc bé thơ của hắn. Và trong tiếng khóc ấy có một cái gì thơ dại tựa như tiếng khóc của đứa trẻ chưa biết lật đang còn nằm ngửa trong nôi.
Phải rồi, nó cũng có cha, có mẹ, cũng có một vành nôi, cũng được nghe tiếng ru ầu ơi dưới bóng rợp vườn thốt nốt, cũng có một nóc nhà đầu rắn Na Ga sàn lát gỗ dầu, đêm đêm nó vẫn lăn người trên đó, nó cũng đổ mồ hôi trên đồng ruộng và cũng có những cái tết Chô-thơ-nam-thơ-mây, cũng cùng cha mẹ với bạn bè tuổi thơ luyện đôi cổ tay uốn người trong điệu múa xúc tép. Và, nó cũng có một quả tim, ở đó chảy những giọt máu hồng như bao nhiêu con người khác.
Đức chợt hiểu: bằng những cuộc tấn công ào ạt và chớp nhoáng đồng đội Đức và các chiến sĩ Cam-pu-chia đã đổ máu đem lại cho đất nước này những đêm lăm-vông, những mái nhà buổi chiều quyện khói bếp, đám cưới hội hè cho các lứa đôi, những mái trường mới cho trẻ con ê a học, một mùa gặt bội thu và áo cà sa vàng tươi của các vị sư sãi dưới các ngôi chùa cổ kính.
Nhưng niềm vui ấy chưa trọn vẹn, như ở U-Đon, bây giờ xa Đức hàng trăm cây số, có một người mẹ vẫn chờ, vẫn đợi, vẫn mỏi mong một điều gì bình thường mà dữ dội. Anh nhận cả công việc hôm nay, ngày mai, ngày kia là làm sao gạt đi lớp tro tàn đang phủ lên làm tắt cục than vẫn cháy trong những con người nạn nhân bất hạnh, như thằng bé mười ba tuổi kia vẫn cầm trong tay con chuồn chuồn chết cứng, trả lại cho nó tình thương và những suy nghĩ của con người.
Công việc ấy dầu còn là công việc đổ máu và biết bao gian lao, nhưng nếu từ nan nó? Thì chính ở trong Đức niềm vui lẫn nghĩa cả và tình yêu cũng không thể nào trọn vẹn
Không, chắc là Pia Rết vẫn còn, Đức tin như vậy, mơ hồ, xa xăm nhưng anh vẫn tin, dù không thể cắt nghĩa rạch ròi ra được anh sẽ tìm Pia Rết ở trận địa này, hay ở mỏm núi đá chênh vênh chắn ngang biên giới, hay ở nơi bãi lầy cuối rừng cả ngày lẫn đêm muỗi vây lấy da thịt Đức, hay ở nơi nào đó nữa, khổ sở, hy sinh thầm lặng còn dày hơn cả đây.
Anh sẽ tìm, anh sẽ trả và chính anh, anh sẽ dẫn Pia Rết ngày xưa về cho mẹ.
Thằng bé đã thôi khóc, nó trở lại cái trò chơi bắt chuồn chuồn vẫn nín thở đưa hai ngón tay như hai gọng kìm, vẫn tiến đến đuôi con chuồn chuồn và bất thần kẹp mạch con chuồn chuồn đập cánh rèn rẹt nằm im trong tay nó. Thằng bé lại cười...
Đức ra cổng trở về. Gió chiều phả vào làn da anh mát rượi, hương lúa từ cánh đồng Xi Sốp Ta được mùa, dịu dàng quyện lấy anh, làm anh nhớ U-Đon da diết.
L.Q.P