Sau những bữa cơm thân mật như trong một gia đình, tôi và anh Chung vào bàn uống nước, ngả người ra ghế, tán đủ chuyện trên đời. Nhưng cũng có lúc, câu chuyện trở nên cảm động, trang nghiêm, ấy là khi chúng tôi nhắc đến những tên đất, tên làng trên quê hương của mình. Mỗi lần như thế, tôi để ý thấy anh Chung trầm hẳn lại, vẻ mặt phảng phất buồn.
Một hôm, nhân lúc chị Dung vắng nhà, cũng những câu chuyện về quê hương như mọi lần, đang giữa chừng, tự dưng anh Chung buồn rầu nói với tôi: “Anh Nam ơi, không nhắc đến quê hương thì thôi, chứ đã nhắc đến, tôi… tôi lại nghĩ nhiều đến cô ấy. Càng nghĩ về cô ấy bao nhiêu, tôi lại càng thầm trách mình bấy nhiêu…”. Tôi nhìn anh ngạc nhiên và thốt lên: “Sao thế? Anh nghĩ đến cô nào và tại sao anh lại phải tự trách mình?”. Anh Chung không trả lời mà đứng dậy đi vào mở tủ, đem ra một cuốn album, giở lia lịa mấy trang, rồi chìa cho tôi xem tấm ảnh. Anh nói giọng nghèn nghẹn: “Cô ấy đây…”. Nhìn bức ảnh, mới chỉ lướt qua, tôi đã định kêu lên “Kiều”, nhưng kịp định thần lại, cố gắng giữ cho vẻ mặt thật bình thường. Anh Chung hoàn toàn không hay biết gì về trạng thái đó ở tôi. Tôi ngắm kỹ bức ảnh một lần nữa. Bức ảnh cỡ sáu nhân chín trắng đen, mấy chỗ đã ố vàng, vẫn rõ hình một cô gái trẻ, mặc bộ bà ba đen, đầu đội mũ tai bèo, vai khoác khẩu AK nòng chúc xuống đất, đang đứng cạnh một gốc cây. Đúng là Kiều rồi! Đúng là cô xã đội phó một thời tôi gặp và cùng chung chiến hào ở quê hương…
Trong lúc tôi đang mơ màng nghĩ về cô xã đội phó xinh đẹp, dũng cảm năm xưa thì tiếng anh Chung thủ thỉ bên tai: “Cô ấy là người yêu năm xưa của tôi ở chiến trường đấy! Đã bao nhiêu năm trôi qua rồi mà trong lòng tôi vẫn ăm ắp những kỷ niệm cùng lời ước hẹn năm xưa…”. Tôi giục: “Chuyện hấp dẫn đấy, anh kể cho tôi nghe đi”.
Anh Chung nhìn đi một nơi xa xăm nào đó trước mặt rồi bắt đầu câu chuyện của mình: Vào một đêm mùa đông năm 1971, tôi được cấp trên gọi đến giao nhiệm vụ mới, một nhiệm vụ ngoài sức tưởng tượng và mong ước của tôi. Anh biết việc gì không? Đó là ngay trong đêm, tôi phải một mình vượt sông Thạch Hãn, đột nhập vào Mẫn Nam, bắt liên lạc với các đơn vị du kích và quân báo, ở đó với họ một thời gian gây dựng cơ sở và quan trọng hơn cả là nắm tình hình địch ở các vùng lân cận, khi có lệnh trở ra báo cáo. Mẫn Nam là vùng nông thôn rộng lớn đang nằm trong tình trạng tranh chấp giữa ta và địch, gần quê tôi, nên được trở lại đó, tôi sẽ có cơ may gặp lại bà con, cô bác làng tôi mà đã lâu tôi chưa gặp lại.

Minh họa: Lê Trí Dũng
Đêm đó, một đêm tháng mười một, trời lạnh buốt. Tôi cùng hai người nữa đi ra bờ sông Thạch Hãn. Sau khi cho quần áo, vũ khí vào bọc nilon, bắt tay đồng đội, tôi bắt đầu bước xuống ngập mình trong nước, nhằm bóng cây si bên bờ Nam, nơi có người của ta đón đợi, bơi sang. Lạnh! Cảm giác đầu tiên là lạnh. Cảm giác sau đó cũng là lạnh. Lạnh buốt khắp người. Có lẽ trong đời, tôi chưa bao giờ thấy lạnh như thế! Ra đến giữa dòng thì cảm giác đó vơi dần, âm ấm trở lại. Bây giờ là việc phải làm sao bơi thật nhanh, thật nhẹ nhàng, thật bí mật để tiếp cận bờ một cách an toàn. Rồi lo lắng ấy cũng qua đi. Chân tôi vừa chạm đất thì việc đầu tiên là tôi thọc tay vào bọc nilon lôi ra khẩu K54 cầm tay. Tôi bước lên bờ, dừng lại cạnh một bụi cây lúp xúp, cách gốc si chừng năm chục mét mặc vội áo quần. Khi tôi vừa gài xong hạt cúc cuối cùng thì bỗng lố nhố trước mặt không xa một tốp người đang lầm lũi đi về hướng tôi. Tôi phát hiện được là nhờ mùi thuốc Salem theo gió thoảng tới. “Lính đi tuần!”. Tôi chỉ kịp thầm kêu ba tiếng ấy rồi xoay người qua bụi cây, chĩa súng về phía trước. Bọn lính vẫn lừng lững đi tới, không một tiếng động. Hai mươi mét… Mười lăm mét… Rồi mười mét. Gay rồi! Tình huống này thì chỉ còn một cách là nổ súng nữa mà thôi.
Trong khi tôi đang loay hoay tính toán chưa biết phải làm gì và ngón tay trong cò súng cứ co dần lại thì từ sau lưng bọn lính bỗng nghe “cạch” một tiếng. Tức thì bọn lính nằm bẹp cả xuống. Một phút trôi qua, chúng nhổm cả dậy và vẫn không một tiếng động. Lợi dụng tích tắc ấy, tôi chuồi người ra khỏi bụi cây, bò lẹ qua khoảng trống rồi lăn người xuống một hố pháo. Sau lưng tôi, tiếng một tên lính nói khẽ: “Đi thôi tụi bay, chắc là chuột chạy đó thôi!”. Và cứ thế, cả bọn lầm lũi đi dọc theo bờ sông.
Tôi đâm sầm vào một gốc cây to. Một bàn tay buộc mảnh vải trắng vẫy vẫy. Nhận đúng mật hiệu, tôi bước đến. Là một cô giao liên. Không nói với tôi một lời, cô quay người bước đi, vẫy tôi đi theo. Tôi bước thấp bước cao theo cô. Dù đã cố đi thật nhanh, tôi vẫn không thể nào theo kịp cái bóng nho nhỏ, thương thương của cô. Thỉnh thoảng cô phải đứng lại đợi tôi và vẫn không nói một câu. Chừng nửa giờ sau, đến một con hào, cô giao liên dừng lại rồi ngồi xuống. Tôi cũng dừng lại theo và ngồi xuống cạnh cô. Tuy đã cố nén, tôi vẫn không thể ngăn được những tiếng thở hắt ra do chưa hết hồi hộp trước tình huống ngặt nghèo vừa trải qua. Tiếng cô giao liên như gió thoảng bên tai: “Cũng may mà anh lên bờ nhanh, chứ chậm một chút nữa là rắc rối to. Em đã phát hiện tụi nó từ xa, đã định cho chúng một quả lựu đạn”. Tôi tỏ ý cảm phục nói khẽ: “Em… À, đồng chí… xử lý tình huống nhanh quá! Nếu đồng chí không kịp thời đánh lạc hướng chúng thì thật tình không biết chuyện gì đã xảy ra!”. Tiếng cô giao liên vẫn thủ thỉ rất dễ thương: “Tụi thám báo vẫn tuần tiễu dọc bờ sông suốt đêm. Không bao giờ chúng bấm đèn pin hoặc mở miệng nói với nhau một câu. Tụi này ranh ma lắm! Không cẩn thận không được đâu!”.
Đêm tối quá! Từ đây đến sáng cũng phải ba, bốn tiếng nữa. Tôi cố mở to mắt mong được nhìn thấy mặt cô giao liên, nhưng “ông trời” đã chẳng chiều lòng tôi. Dẫn tôi đi chừng vài chục phút nữa, cô giao liên “bàn giao” tôi cho mấy du kích đón đợi ở đầu đường, rồi một mình rẽ sang hướng khác. Khi chia tay, cô dúi vào tay tôi một quả cam và vẫn cái giọng dễ thương: “Anh ăn tạm cho đỡ mệt. Em phải đi đây, hẹn ngày mai gặp lại”. Rồi cô đi. Mảnh dù xanh bay theo chiều gió.
Tôi ở Mẫn Nam chưa đầy ba tháng mà chứng kiến biết bao gian khổ, hi sinh. Anh Nam này, tôi nói thế này không biết có đúng không, nếu như Quảng Trị là chiến trường khốc liệt nhất trong những năm chiến tranh, thì Mẫn Nam phải được xem là địa bàn gian khổ nhất, ác liệt nhất ở quê mình lúc bấy giờ. Và tại đây tôi đã gặp Kiều - chính cô giao liên dẫn đường hôm nào - một nữ du kích xinh đẹp, dịu hiền nhưng đã nổi danh dũng cảm. Năm ấy, Kiều vừa tròn hai mươi tuổi, là con gái duy nhất của một cán bộ tập kết ra Bắc, mẹ mất trong một trận càn của địch khi Kiều chỉ mới mười hai tuổi. Cô lớn lên trong sự cưu mang và tình thương của bà con xóm làng. Năm mười sáu tuổi, Kiều xin vào du kích, làm liên lạc, sau chuyển dần lên các công tác khác, và cuối cùng qua thử thách, Kiều trở thành một cán bộ chỉ huy du kích đầy mưu trí.
Ngay từ khi vừa đặt chân đến Mẫn Nam, với kinh nghiệm của một cán bộ quân báo, tôi đã hình dung được bao nỗi khó khăn của vùng đất ba phía là giặc này. Tôi thực thi ngay công việc đã được giao. Hằng ngày, tôi báo cáo lên cấp trên tình hình qua máy bộ đàm PRC25. Kiều rất quan tâm đến công việc của tôi. Bằng cách này cách khác, em đều tìm cách giúp đỡ. Tôi bắt đầu thích được gần em. Chính những lần gặp ấy, ngoài nhiệm vụ ra, tôi và em còn có thêm chút thời gian để hiểu về đời tư của nhau.
Kiều dẫn tôi ra vùng giáp ranh quan sát các điểm trú quân của địch. Tụi lính từ bên kia đồng phát hiện thấy chúng tôi, chúng bất ngờ xả mấy tràng 12ly8, sau đó dùng cối 60 nện sang. Tôi đang loay hoay với cái ống nhòm trên tay, bỗng giật mình khi nghe Kiều từ phía sau kêu “ối” một tiếng. Biết chuyện chẳng lành, tôi nhào ngay đến. Bên một mép hào, Kiều nằm nghiêng người, hai tay đè chặt một bên háng, sát phần dưới bụng. Nơi ấy, máu thấm đỏ cả mảng quần và hai bàn tay em. Tôi xô đến, nhưng cứ lúng ta lúng túng không biết phải làm gì. Không phải là tôi u mê hay lú lẫn gì cho cam, mà cái chính là bởi vết thương ở nơi em. Kiều có vẻ hốt hoảng nói với tôi: “Em bị thương ở… anh đi ra chỗ khác đi!”. Vừa nói em vừa đẩy tôi ra. Tôi không chịu, nên nói với em: “Sao lại đi chỗ khác? Kiều để tôi băng cho. Ôi, máu ra nhiều quá, nhanh lên!”. Cối địch vẫn dập dồn dội xuống. Mấy lần tôi sấn tới, em đều đẩy tôi ra. Trước tình thế này tôi buộc phải làm dữ, nói với em vừa như mệnh lệnh, vừa như van lơn: “Không được, em làm vậy máu không cầm đâu! Nào, em đừng ngại, để tôi băng vết thương cho. Lúc bình thường… thì khác… còn lúc này… em hãy xem… xem tôi như một bác sỹ… một người cùng giới…”. Rồi mặc cho Kiều có đồng ý hay không, tôi ôm gọn cả người em, đặt nằm giữa lòng hào. Và, rất nhanh, tôi giật phắt cuộn băng, rồi cúi xuống, một tay lùa phía dưới nâng mông Kiều lên, một tay kéo tuột chiếc quần Kiều đang mặc xuống tận đầu gối. Vết thương do một mảnh cối sướt qua dài cỡ hai đốt ngón tay. Tôi gần như nhắm mắt lại mấy giây. Cả người tôi nóng ran, hai tay run lẩy bẩy. Vâng, thú thật với anh, bao năm chiến đấu ở chiến trường, bao lần băng bó vết thương cho đồng đội, chưa bao giờ tôi gặp cảm giác đó ở mình, dù tôi đã cố lòng nén xuống, cố lãng quên đi mọi chuyện, cốt sao băng thật nhanh vết thương cho Kiều.
Băng xong, tôi đỡ Kiều ngồi dậy. Cối địch cũng thôi không bắn nữa. Tôi làm bộ tỉnh bơ nói với em: “Vết thương không nặng lắm, sẽ chóng lành thôi em ạ!”. Kiều nhìn tôi, mặt lạnh tanh, rồi thình lình ngả đầu vào vai tôi khóc nức nở. Tôi ngạc nhiên hơn là xúc động trước cử chỉ không thể ngờ ấy của em. Tôi ngồi yên, nhè nhẹ nắm tay em, mặc cho đôi vai tôi cũng run lên theo những tiếng thổn thức ấy… Nhưng tôi cũng kịp hiểu vì sao em khóc. Tiếng khóc của em không phải do đau đớn vì vết thương, càng không phải do cảm động dành cho tôi vì đã băng bó cho em. Tôi hiểu tiếng khóc ấy. Một người con gái hai mươi tuổi tròn, trắng trong, đã biết khóc những giọt nước mắt hổ thẹn, cao hơn hổ thẹn, ấy là sự tế nhị của lòng tự trọng, khi cảm thấy bản thân mình, do một trường hợp oái oăm, đã lỡ đánh mất một điều gì đó. Cả sau này, khi vết thương đã lành, mỗi lần gặp tôi, em lại có vẻ thèn thẹn, hai má đỏ hồng lên.
Nhưng cũng từ cái lần “xúi quẩy” ấy mà tôi có diễm phúc được gặp Kiều nhiều hơn. Chúng tôi tự đến với nhau, lòng không hẹn mà cứ mong được gặp nhau. Chỉ một thời gian, qua vài trận đánh, tôi và Kiều đã yêu nhau. Trong chiến đấu, có những tình yêu đến nhanh như vậy đấy, cứ như là chiêm bao. Tình yêu của chúng tôi không giống tình yêu của những chàng trai, cô gái, ở chốn yên lành, giàu mộng mơ, lãng mạn, rồi tán tỉnh với đủ trăng sao, bướm ong, hoa lá… mà tình yêu của chúng tôi được nảy mầm từ trong lửa đạn của cuộc chiến tranh đầy gian khổ. Tình yêu ấy lại được sự vun vén của anh em, đồng chí. Thật không hạnh phúc nào hơn là sau mỗi trận đánh, chúng tôi lại gặp nhau, được nghe nhau nói, được thấy nhau cười, và hạnh phúc nhất là thấy nhau còn lành lặn, an toàn. Sau những phút giây đắm đuối bên nhau, chúng tôi như những kẻ mất hồn được hoàn hồn trở lại. Kiều thở dài não ruột nhìn vào mắt tôi. Qua ánh sáng bàng bạc của trăng sao, tôi thấy mặt em như tái nhợt đi, nửa hạnh phúc, nửa âu lo. Đọc được nỗi niềm ấy trong em, tôi ôm em vào lòng, thì thào cùng em: “Cũng tại bởi chiến tranh… Kiều ơi, nếu không có chiến tranh, chúng mình sẽ làm lễ cưới ngay ngày mai, ngay tại đây, để chúng mình sẽ là của nhau, mãi mãi sống bên nhau… Còn bây giờ, trong hoàn cảnh này, phần anh, cho dù phải lên rừng hay xuống biển, và dù có xa cách bao nhiêu, anh cũng chỉ yêu em, mãi mãi yêu em…”. Kiều không đáp rằng tin hay không tin lời tôi nói. Em chỉ im lặng. Sự im lặng đốt cháy cả lòng tôi. Và như để trả lời cho sự im lặng đó là tiếng súng đì đùng đâu đó ở xa xa. Rồi tiếng máy bay, tiếng đại bác ầm ầm vọng lại. Không gian như rùng rùng chuyển động. Mặt đất nơi chúng tôi ngồi rung lên chao đảo. Tất cả, tất cả mọi âm thanh hỗn tạp ấy như muốn nói với chúng tôi rằng, chiến tranh, đạn bom hãy còn đó, các người đừng có hão huyền hy vọng ở nhau. Tôi quàng tay qua vai em, má tôi áp nhẹ vào má em. Nước mắt em nóng hổi…
Một tuần sau, tôi có lệnh của trên rút ra ngoài nhận nhiệm vụ mới. Phải đi ngay! Tôi chỉ kịp hội ý chớp nhoáng với anh em trong lán mình ở, bắt tay hết lượt, rồi đi tìm Kiều. Đêm tối như bưng lấy mắt. Tôi lo không gặp được Kiều bởi thời gian quá gấp. Nếu chậm, trời sáng, sẽ không thoát ra được, nhất là không thể sang bên kia sông Thạch Hãn được. Tôi liều mạng lội xuống một con lạch nhỏ, định tìm đến một cái hầm của du kích. Đang loay hoay bám cành cây leo lên thì một họng tiểu liên đen ngòm dí sát mặt tôi và một tiếng hô dõng dạc: “Đứng im! Giơ tay lên!”. Tôi giật thót người, chưa biết xử lý ra sao thì liền đó bỗng “vèo” một cái, rồi một cái vòng thòng lọng ở đâu đó bay tới chụp gọn vào cổ tôi. Biết là du kích, theo phản xạ tự nhiên, tôi tóm lấy sợi dây, miệng kêu khẽ: “Tôi, tôi đây, Chung đây!”. Lập tức ánh đèn pin lóe sáng. Họng tiểu liên rê sang hướng khác, cái thòng lọng cũng bay ra khỏi cổ tôi. Một bàn tay chìa ra. Tôi tóm lấy, leo lên. Du kích là như thế! Họ nhanh như chớp, thoắt ẩn, thoắt hiện, và khi cần thiết, họ xuất hiện rất đúng lúc.
Trời vẫn tối đen như mực, chẳng nhìn rõ mặt ai. Một lúc mới nghe tiếng anh Tâm xã đội trưởng hỏi tôi: “Chuyện chi xảy ra hay sao mà gấp gáp vậy chú Chung?”. Rồi anh bước đến gần tôi. Sau lưng anh thấp thoáng mấy người nữa. Có cả Kiều, người quàng mảnh dù xanh, vai khoác khẩu AK, nòng chúc xuống đất. “Tôi… tôi tìm các anh để chia tay… Tôi phải đi ngay bây giờ”. Tôi đáp và chìa cho anh Tâm xem mảnh giấy. Kiều sán ngay lại. Anh Tâm bấm đèn pin và cả hai cùng đọc. Đọc xong, Kiều ngẩng lên nhìn tôi đau đáu. Trong đêm tối, tôi có cảm tưởng em khẽ rùng mình một cái. Còn anh Tâm bỗng thở phào, buông một tiếng “chà!” nặng trịch, rồi anh trầm ngâm nói với tôi: “Biết làm sao được, lệnh của trên. Rất cần! Phải đi ngay trong đêm nay. Tôi biết nói gì với chú Chung bây giờ đây? - Rồi như sực nhớ ra điều gì, anh đột ngột quàng tay ôm lấy tôi, giọng trở nên xúc động. - Chú Chung đi nhé! Đừng quên nhau nhé! Mong sao sớm được gặp lại nhau. - Anh bắt tay tôi một lần nữa. - Tạm biệt!”. Anh bấm khẽ vào người du kích đứng cạnh rồi bước đi. Chỉ một lát sau, tất cả cùng biến vào màn đêm.
Chỉ còn lại một mình Kiều đứng bên tôi. Tôi quay sang ôm Kiều vào lòng, nói với em chứa chan trìu mến: “Kiều ơi, anh đi tìm em, cậu liên lạc đang chờ anh ngoài kia. Chỉ một lát nữa là chúng mình phải xa nhau rồi…”. Toàn thân em như bất động trong vòng tay tôi. Tôi có cảm tưởng như lúc này em không còn là cô du kích dũng cảm nữa, mà chỉ là một cô gái nhỏ bé, yếu mềm, đang lặng đi trong khổ đau của chia ly, cách biệt. “Kiều em… em - tôi vẫn thì thào - anh đi chuyến này chắc lâu lắm! Rồi không biết khi nào anh mới được gặp em…”. Kiều vẫn đứng yên, đầu hơi cúi xuống, tay mân mê nòng súng. Rồi đột nhiên áp má vào ngực tôi. Tôi vùi đầu vào mái tóc em, nghe mùi lá chanh quen thuộc. Bỗng em ngẩng lên nhìn mặt tôi, tiếng em ráo hoảnh, trở nên cứng cỏi: “Xa nhau, anh nhớ thương em một, chứ em nhớ thương anh mười. Con gái bao giờ cũng yếu đuối, dễ mủi lòng, mau nước mắt hơn mà anh. Con gái hễ yêu ai là yêu tới cùng, yêu tha thiết, yêu mãi mãi. Mấy tháng qua, anh về đây, biết bao gian khổ, chẳng nề khó khăn, chung tay góp sức với chúng em chiến đấu bảo vệ quê hương. Chú Tâm và cả xã đội cùng vun vén cho chúng mình. Bây giờ anh phải đi, em chỉ còn biết chờ đợi anh…”.
Đấy là lần đầu tiên Kiều nói nhiều đến tình yêu. Tôi hiểu đó là lời nhắn gửi của em đối với tôi. Tôi chỉ còn biết ôm chặt lấy em, ép sát em vào người tôi. Tiếng em khó nhọc, nghẹn ngào: “Anh… anh đừng… đừng bao giờ phụ bạc tình em nghe anh!”. Tôi như bị thôi miên, không sao mở miệng trả lời em được, chỉ khẽ gật đầu. Tôi cũng không còn nhớ thời gian đã trôi đi bao lâu. Đột ngột, Kiều gỡ tay đẩy tôi ra: “Thôi, anh đi đi, người ta đang đợi”. Tôi sực tỉnh, quay người bước đi. Chưa được mấy bước, Kiều gọi giật lại rồi thoăn thoắt chạy đến, giở tấm dù trên người, quàng lên cổ tôi: “Trời nhiều sương, anh mang theo kẻo lạnh, ra đến nơi, có ai vào, nhắn tin cho em mừng”. Đi một quãng, tôi quay lại, qua ánh sáng nhàn nhạt của sao đêm, tôi vẫn thấy em đứng y chỗ cũ nhìn theo, rồi mờ dần, mờ dần, và sau cùng không còn nhìn thấy gì nữa. Tôi bắt đầu rảo bước. Rồi tôi chạy. Tiếng sương đêm nặng hạt nghe lộp bộp, lộp bộp trên các tàu lá…
Kể đến đây, anh Chung xúc động thực sự, lấy tay quệt mắt. Còn tôi, vừa rót nước ra ly, vừa đưa mắt nhìn anh, cảm thấy buồn buồn không sao chịu được. “Rồi sau đó thì thế nào anh?” - tôi nhẹ nhàng hỏi anh.
Vâng, ngay trong đêm đó, tôi và cậu giao liên vượt ra được khỏi vùng địch kiểm soát, qua sông, ra đến vùng giải phóng. Tôi trực tiếp trình bày với cấp trên tình hình ở Mẫn Nam, nghỉ ngơi ít ngày, sau đó nhận nhiệm vụ mới. Cũng từ đó tôi không nhận được tin tức gì về Kiều nữa. Tuy vậy, hình bóng em lúc nào cũng hiện lên trước mắt tôi, khiến tôi nhớ nhung da diết. Những lúc nhớ em, tôi lại lấy ảnh em ra ngắm nghía. Tôi vùi đầu vào mảnh dù em trao, hít căng lồng ngực hương thơm ngọt ngào của lá chanh từ tóc em còn vương lại. Năm tháng trôi qua. Địa bàn mở rộng. Rồi chiến trường lan rộng. Cuộc chiến tranh vào giai đoạn kết thúc càng thêm gian khổ, ác liệt. Tôi lao vào nhiệm vụ tiếp tục cuộc hành trình với bao trận chiến đấu lớn nhỏ. Hình ảnh em tôi mang theo ra trận, không một lúc nào nguôi ngoai nỗi nhớ trong tôi. Năm 1972, tôi tham gia chiến dịch Thành Cổ Quảng Trị 81 ngày đêm. Đầu năm 1975, tôi theo đơn vị tiến vào Sài Gòn. Rồi, trong một trận đánh, đúng vào cái thời khắc chói lọi nhất của cuộc chiến tranh đằng đẵng và kéo dài ấy, tôi không may trúng đạn địch bị thương, phải ra Bắc điều trị. Ngày lành vết thương, việc đầu tiên là tôi trở lại Quảng Trị tìm em. Nhưng một sự thật phũ phàng đã đến với tôi, khiến tôi lặng đi vì đau đớn. Đó là tôi nhận được tin Kiều đã lấy chồng. Tôi tha thẩn thăm lại chiến trường xưa, cố gạt hình bóng em ra khỏi tâm trí, rồi lặng lẽ trở ra Hà Nội. Chính thời gian này tôi và Dung đã đến với nhau.
Anh Chung dừng lại, chính là lúc tôi không còn kiên tâm đóng kịch được nữa. Tôi nói ngay cho anh hay là tôi có biết Kiều, chẳng những biết mà tôi và Kiều còn là chỗ thân quen nữa là khác. Tôi nói rất bình tĩnh, cứ như từ nãy đến giờ tôi chưa hề được nghe anh kể, chưa hề được biết tí gì về tình yêu của hai người vậy. Lập tức, tôi bị một cú đấm muốn sụn xương vai, thêm hai lần anh xô ghế đứng dậy, túm vai áo tôi giật giật, nói không nên lời: “Thật không? Có thật không? Anh gặp Kiều từ bao giờ, cô ấy ra sao, anh kể cho tôi nghe đi…”. Nhìn vẻ háo hức của anh, tôi mỉm cười, rỉ rả kể ra những gì mà tôi biết về Kiều. Rằng, sau khi anh đi, đơn vị tôi được lệnh cấp tốc chi viện cho Mẫn Nam, do vậy, tôi gặp và quen Kiều. Rằng, Kiều vẫn trẻ trung, xinh đẹp như xưa. Rằng, sau ngày giải phóng, do một tin thất thiệt, Kiều đã nhầm tưởng anh hi sinh nên đã lấy chồng. Rằng, chồng Kiều cũng là một cán bộ giải phóng quân… vân vân và vân vân. Nghe những điều này, tôi nhận thấy anh Chung lộ rõ niềm vui vẻ, mãn nguyện. Anh nói gần như reo lên khiến tôi cũng vui lây: “Ôi, tôi mừng cho Kiều quá! Thật hạnh phúc cho cô ấy!”…
N.N.C