Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 26/12/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Đọc : Một thời Quảng Trị, nhớ về quê mẹ anh hùng

N

ói đến mảnh đất Quảng Trị đau thương và anh hùng quê tôi, tôi không sao quên được câu nói của nhà văn Nguyễn Minh Châu như một ma lực từ ruột gan người lính: “Cái mảnh đất Quảng Trị gần như tôi bị si mê, hình như trong con người tôi và mảnh đất ấy có chung một sợi dây thần kinh mà hễ cứ chạm đến đấy thì cả con người tôi rung lên – tôi đã gắn bó với nó - cái vùng quê hương chiến tranh và khổ ải ấy hơn cả quê hương mình”. Đó cũng là nỗi lòng, lời tri ân của hàng nghìn hàng vạn chiến sĩ quân đội ta đối với Quảng Trị, mảnh đất nhọc nhằn, gan góc đã nuôi dưỡng, rèn luyện bao đồng đội của anh Châu thành dũng sĩ, trong đó có Thượng tướng, TS Nguyễn Huy Hiệu - một nhân chứng lịch sử của cuốn hồi ức: Một thời Quảng Trị. Đã có hàng mấy trăm, thậm chí hàng nghìn bài thơ, bản nhạc, thiểu thuyết, truyện ký, vỡ diễn, hồi ức viết về vùng đất đau thương và hào hùng này. Nguyễn Huy Hiệu đến sau, ông chọn thể loại ký ức - một thể loại gần với lịch sử - mà nhân vật trung tâm là tôi và chúng tôi (những đồng đội của ông). Lịch sử khách quan hơn văn học; văn học triết luận hơn lịch sử. Không nên nói cái nào hơn cái nào, bởi trong cái này có cái kia. Nhưng cái trước giúp người đọc hình dung được toàn cảnh cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước một cách chân thật tối đa: có thắng và có thua, có chiến công và sự hy sinh mất mát, trong cuộc tiến công Mậu Thân năm 1968 cho đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tác giả hồi ức không quên chọn lọc tư liệu, khái quát nhiều sự kiện ở các chiến dịch. Viết loại sách ký ức mà chỉ thuật lại câu chuyện từ đầu chí cuối, dù là kể hay, vẫn ít mang lại hiệu quả của sự đọc. Vì vậy, người viết những dòng này xin nêu mấy cảm thức khi đọc cuốn Một thời Quảng Trị, cuốn sách hội tụ nhiều chiến công lịch sử, giá trị văn hóa của một miền đất địa linh ở miền Trung.

I. Quảng Trị là vùng địa linh - một địa danh nổi tiếng về du lịch - đầu tư hấp dẫn.

Công bằng mà nói, “Địa linh nhân kiệt” thì không phải chỉ Quảng Trị mới xứng danh. Nhưng Quảng Trị có mấy đặc điểm độc đáo ít nơi nào có được. Hình như tiền nhân và con cháu thời đại Hồ Chí Minh sớm nhận ra rằng, nếu lịch sử chọn Quảng Trị làm điểm tựa, thì dân tộc ta biết giao phó sứ mệnh đó cho ai? Chỉ cần dẫn lại hai trong nhiều kỳ tích lịch sử đó. Một là, một mảnh đất nhỏ, hẹp diện tích trên dưới vài trăm cây số vùng mà đã ba lần là kinh đô lâm thời của cả nước. Nguyễn Hoàng cùng đoàn tùy tùng, nghĩa dũng từ Bắc vào Cửa Việt, ngược dòng sông Hiếu, qua Đông Hà rồi vào Ái Tử dựng dinh thự định đô trước khi vào cố đô Huế. Những năm 1883 - 1885 vùng Tân Sở (xứ Cùa) là căn cứ chống Pháp của vua Hàm Nghi. Sau khi kinh thành Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến lên miền Tây, ra Quảng Trị, thì miền đất linh ứng này thành kinh đô dã chiến, mở đầu phong trào Cần Vương, cứu nước. Còn vào những năm 70 (TK XX) Chỉnh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam chọn thị trấn Cam Lộ làm thủ phủ. Vì sao? Vì hình thế núi sông hiểm trở, có lợi cho việc phòng thủ, giao thông thuận lợi có ích cho thương doanh; con người giao hòa là cơ hội của việc bang giao, ứng xử. Hai là, trong lịch sử dân tộc ta, việc chia cắt đất nước đều trùng hợp với việc chia cắt Quảng Trị diễn ra không phải một lần. Và lần gần nhất (1954) không chỉ đất nước bị chia đôi, mà tỉnh bị chia cắt, huyện bị chia cắt (Vĩnh Linh), và xã cũng bị chia cắt (xã Vĩnh Sơn) và sau cùng là con sông Bến Hải cũng bị phân đôi. Bi kịch đó không chỉ riêng ai. Nỗi đau là sự thật đến vô lý. Mượn lời con sông bị chia cắt, Tế Hanh không nén nổi cảm xúc trào dâng khi viết về “thân thể” Quảng Trị những ngày rướm máu: Tôi chảy ngày đêm không nghỉ/ Đôi bời Nam - Bắc nhìn nhau/ Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị/ Tận chân trời mây núi có chia đâu? Dựng lại những sự kiện lịch sử hào hùng được nêu đậm - nhạt trong chương I với nhan đề: Quảng Trị và cuộc hội thảo: “Hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội”, tác giả cuốn ký ức đã nêu 10 di tích có giá trị đối với hoạt động du lịch, điểm đến của đầu tư và phát triển, mở ra thời kỳ mới: mở cửa và hội nhập, bằng chứng về chính sách hòa hiếu - truyền thống yêu nước của dân tộc, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước.

II. Tinh thần “thép” của Quân Đội vì dân…

Chiến tranh luôn bất lợi cho nhân dân ta, nhưng kẻ gây chiến, xâm lược cũng có số phận bi đát không kém. Con số 50.000 lính Mỹ tử trận các chiến trường miền Nam là sự thất bại nhục nhã về chính trị, sự sụp đổ chiến lược của mấy đời tổng thống Mỹ, sự sa sút về tinh thần của quân đội Mỹ, lính chư hầu và quân ngụy. Trong chương II: Bắc Quảng Trị trong cuộc tiến công năm 1968 với gần 80 trang sách, tác giả miêu thuật những trận đánh  trả, đánh thọc sâu, đánh vận động chặn đầu, đánh tập kích, đánh vây lấn khóa đuôi những đơn vị địch cấp đại đội, tiểu đoàn trở xuống. Lúc này Nguyễn Huy Hiệu là trung đội trưởng đại đội 1, tiểu đoàn 3, trung đoàn 27 (tr.57). Đánh chiếm các đồn, bốt, chốt, cao điểm địch ở phía Bắc Quảng Trị, lần đầu tiên bộ đội từ Bắc vào giáp mặt với quân đội Mỹ với các sư đoàn thiện chiến, sư đoàn 23 “thổ công” quân ngụy với máy bay các loại, pháo các cỡ, xe tăng, thiết giáp… đòi hỏi ý chí quyết chiến, quyết thắng rất cao với tinh thần “thép”. Tinh thần đó không chỉ được thể hiện ở thành tích đánh nhiều trận, lập công diệt nhiều địch, cướp nhiều vũ khí, đánh lùi mọi cuộc tập kích, phản kích của địch, mà còn phải khắc phục mọi khó khăn do khí hậu khắc nghiệt ở miền “gió Lào cát trắng” về mùa khô, “mưa nguồn thác lũ” về mùa mưa, lương thực thiếu thốn, đạn dược không phải lúc nào cũng dư dật, âm mưu li dân vào các tỉnh phía Nam “kế hoạch giành dân” đã biến toàn huyện Cam Lộ, Gio Linh thành vùng đai trắng. Tinh thần “thép” còn thể hiện ở cách đánh sáng tạo, biết tránh những đòn ác hiểm của địch, nhưng cũng biết bày mưu, tính kế cho những trận công kích. Trận đánh điểm huyệt Cồn Tiên, ở cao điểm 158 là một ví dụ. Để tập kích vị trí cực kỳ quan trọng này ở vùng chiến thuật I, tác giả viết: “Cồn Tiên là cao điểm 158 mét so với mặt nước biển… do vị trí quan trọng của nó nên Mỹ đã xây dựng Cồn Tiên thành căn cứ quân sự mạnh, có lô cốt bê tông, cốt thép xen lẫn hầm lát bằng những tấm ghi và xếp những bao cát. Căn cứ có một tiểu đoàn lính Mỹ và đại đội pháo 105 ly, xung quanh căn cứ là chín lớp hàng rào dây kẽm gai với nhiều loại mìn…” (tr.88). Những cách đánh sáng tạo có hiệu quả mà giữ được quân, như đào hầm ếch, tổ bắn tỉa, đào công sự dưới những bụi tre cháy trụi, chốt vây ép cơ động, lấy dù Mỹ ngụy trang và chỉ sau 4 ngày quân ta đã gỡ được hàng chục quả mìn và lọt vào được hàng rào thứ năm… “Tính đến ngày 30 - 6 - 1968, trung đội ta đã vây ép Cồn Tiên 52 ngày đêm, giam chân một lực lượng quân địch trong căn cứ làm chúng căng thẳng tinh thần bạc nhược…” (tr.92). Đây là hình thức chi viện kịp thời nhất, hiệu quả nhất cho các đơn vị bạn ở hướng Khe Sanh, Làng Vây. Việc trung đội của Nguyễn Huy Hiệu được rút ra cứ để cũng cố theo lệnh của Bộ tư lệnh mặt trận là một chiến thuật giữ quân. Nhưng trên đường rút vấp gặp phải sự kháng cự của lính Mỹ có sự yểm trợ của xe tăng M.113, trung đội của Nguyễn Huy Hiệu trong 15 phút phản kích đã tiêu diệt cả trung đội Mỹ, còn bên ta rút lui an toàn.

Một nhận xét đáng ghi nhận của chương II là tác giả có ý thức ghi lại họ tên, quê quán (từ xã, huyện, tỉnh, hy sinh ở đâu v.v…) đồng đội hy sinh sau mỗi trận đánh, hay sau mỗi lần bị bom B52 ném trúng đội hình. Đó là một việc làm nhân văn, tạo thuận lợi để về sau các đoàn đi tìm kiếm thi hài chiến sĩ về mai táng.

III. Chiến tranh nhân dân – một dấu son của chủ nghĩa yêu nước.

Tiếp thu tinh hoa đường lối chiến tranh nhân dân của cha ông, các nhà chiến lược quân sự của bộ đội cụ Hồ đã học được nhiều điều trong binh pháp người xưa. Đánh mạnh ở Bắc Quảng Trị, kéo quân Mỹ ra đường Chín - Nam Lào để phản công chúng. Đánh điểm yếu của chúng ở Ban Mê Thuột để khởi đầu và tạo điều kiện cho các chiến dịch Huế - Đà Nẵng và cuối cùng là chiến dịch Hồ Chí Minh. Trong 4 chương cuối của tập ký ức, chúng tôi chú ý ba sự kiện nổi tiếng:

Hệ thống phòng thủ hàng rào điện tử MắcNamara là công trình quân sự đồ sộ, là bức tường thành dựng lên theo ý tưởng của Bộ trưởng quốc phòng Mắc - Namara với ý đồ ngăn chặn mọi nguồn tiếp tế từ Bắc vào Nam do 47 nhà khoa học kỹ thuật quân sự nghiên cứu dưới sự chỉ đạo của Mắc. Hệ thống này được báo chí phương Tây coi là “tuyến Maginô phương Đông” với kinh phí là 2 tỉ USD. Hệ thống vật cản có chiều dài 12 km hàng rào kẽm gai từ Cồn Tiên đến biển Đông với chiều rộng từ 10 đến 12 km trong đó có các bãi mìn chống xe tăng, bộ binh. Từ Cồn Tiên lên biên giới Lào Việt địch phát quang cây cối, rải chất độc hóa học. Để phát hiện mục tiêu, nhiều máy cảm ứng âm thanh, cảm ứng địa chấn được thả từ máy bay để phát hiện người, tiếng động trong cự ly 300 - 400m. Các máy trinh sát tinh vi có khả năng phát hiện tiếng động dù là nhỏ nhất của người hoặc xe ở cự ly 100 - 300m. Ngoài ra còn có một sư đoàn lính Mỹ, 3 trung đoàn lính ngụy, lực lượng bảo an, pháo binh, thiết giáp, các loại máy bay tiêm kích, cường kích sẵn sàng tiêu diệt mục tiêu vượt qua phòng tuyến. Tất cả những khí tài hiện đại phòng ngự đó có gây khó khăn cho sự chi viện của miền Bắc, nhưng không làm ai sợ. Nhiều tiểu đoàn bộ đội địa phương và dân quân các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ đã quả cảm liên tục đánh phá, quấy rối làm cho tiến độ thi công chậm lại… (tr.126 - 129).

Vai trò của nhân dân trong cuộc tiến công Mậu Thân 1968 đến khi đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn được tác giả thuật lại như một nhân chứng: Vai trò của đội quân văn nghệ sĩ, nhà báo, nhà quay phim, phóng viên nhiếp ảnh ở chiến trường Bắc Quảng Trị, đường Chín - Nam Lào (tr.121). Hội diễn văn nghệ toàn mặt trận B5 để động viên sức chiến đấu của bộ đội (tr.153). Lễ truy điệu Bác Hồ của các chiến sĩ đại đội 2, trung đoàn 27 cùng quyết tâm thư gửi lên thượng cấp khi nghe tin Bác qua đời (tr.153), trận “Bạch Đằng giang trên sông Hiếu” của quân dân, bộ đội địa phương cùng nhân dân các xã phía Đông Cam Lộ (tr.146), gia đình lính ngụy đòi binh lính là con em của họ giả ngũ, rã ngũ; kế hoạch bảo vệ dân phá âm mưu dùng dân làm bia đỡ đạn (tr.279, 338). Khi hậu cần không đáp ứng kịp lương thực, quân trang thì chỗ dựa vẫn là dân. Chủ trương quân sự hóa toàn dân, cộng sự hóa toàn khu vực Vĩnh Linh với khẩu hiệu “nhà che nắng che sương, hầm che xương, che thịt”. Với đôi bàn tay rắn rỏi và công cụ cuốc xẻng thô sơ nhân dân Vĩnh Linh đã kiên trì đào được hàng nghìn cây số hào giao thông, đặc biệt có khoảng 30.000 mét địa đạo (tr.40), nơi có giếng nước, bệnh xá, hầm hộ sinh, kho lương thực, vũ khí, bếp nấu, nhà tắm. Nói đến vai trò của nhân dân trong chiến tranh, Nguyễn Huy Hiệu không quên kể lại phương án bảo vệ dân trong một trận đánh ở Gia Đẳng (Triệu Phong). Khu tập trung này có khoảng một vạn dân nằm trên vùng cát trắng. Đánh địch ra sao đây để vừa tiêu diệt điểm cao 8, căn cứ khống chế khu tập trung và xung quanh là trận địa pháo cối? Trung đoàn 27 quyết định dùng xe tăng, thiết giáp đột kích vào điểm cao 8 vừa bao vây khu tập trung kết hợp với kêu gọi binh lính ra hàng, nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Nhân dân bên ngoài đổ ra đường chào đón bộ đội mỗi lúc một đông. Cả khu tập trung Gia Đẳng như vỡ ra bởi tiếng reo hò của gần một vạn dân, tay cầm cờ mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam.

Tác giả ký ức cũng không dấu giếm những tổn thất của quân và dân ta trong cuộc chiến tranh mấy ngàn ngày ở các chiến trường miền Nam, cuộc đối đầu ác liệt, tử thủ giữa quân ta và quân địch. Từ những hiện tượng bi quan dao động, đầu hàng của một số kẻ phản bội; có trận đánh một đại đội chỉ còn 15 tay súng (tr.117) cho đến mức độ ác liệt ở tuyến phòng thủ Đông Hà, Ái Tử (tr.297), nhất là trong 81 ngày đêm ở Thành Cổ Quảng Trị, mà nguyên nhân thì có nhiều, kể cả những khuyết điểm về chiến lược (tr.389). Đây là một cảnh bi tráng ở mặt trận: “Cuộc chiến đấu càng về trưa càng diễn ra ác liệt, nhất là hướng Đông Nam thị xã. Ta và địch giành nhau từng căn nhà, ụ đất. Bộ binh địch đột phá không được, lùi ra gọi phi pháo. Mật độ bom pháo dày đặc tới mức không thể nhận ra từng tiếng nổ… Trong thị xã, tường Thành Cổ bị đổ sụp từng mảng, mặt đất biến dạng. Gạch ngói, đất đá nóng cháy khét lẹt… Những chấn động và sức ép triền miên của bom Mỹ làm hầm hào sụt lở, lòng hầm hẹp lại. Hầm hố, công sự chao đảo đu đưa, người bị nhồi lên, ép xuống. Không khí ngột ngạt… Ngồi trong hầm không trúng mảnh đạn mà máu vẫn trào ra ở tai, ở mũi. Ở cái thị xã Quảng Trị và Thành Cổ nhỏ hẹp này Mỹ đã đổ xuống một khối lượng bom đạn có sức công phá lớn hơn gấp nhiều lần hai quả bom nguyên tử mà chúng đã ném xuống nước Nhật” (tr.135).

Một đoạn khác: “Tình hình diễn ra vô cùng gay go, căng thẳng, ác liệt. Số thương vong của các đơn vị ngày một nhiều… trung bình mỗi ngày lên tới hơn trăm người… tám tiểu đoàn bộ binh bám trụ chiến đấu trong nội thị, nhưng trên thực tế nhiều tiểu đoàn số tay súng không quá 50” (tr.366). Sau 81 ngày đêm chiến đấu, bám trụ kiên cường, nhưng những điều bất lợi cũng gây sức ép lớn, theo lệnh của Bộ tư lệnh chiến dịch, quân ta đã rút lui khỏi Thành Cổ một cách an toàn vào sáng ngày 16/9/1972. Trong binh pháp rút lui đúng lúc không có nghĩa là thua trận. Đó là cuộc rút lui chiến lược. Kinh nghiệm lịch sử cho ta hay rằng, trong kháng chiến chống quân Minh, Lê Lợi bảo với chư tướng rằng: “Ta bốn mặt đều có quân địch, binh pháp gọi là tử địa. Đánh mau thì còn, không đánh mau thì chết”(1) “Bỏ chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tránh nơi thật lực, đánh nơi hư, ít dùng sức mà công gấp bội”(2) đó là bài học cho hôm nay và muôn đời.

Chiến trường Bắc Quảng Trị, chiến dịch đường Chín - Việt Lào, chiến dịch giải phóng Quảng Trị, chiến dịch Hồ Chí Minh là những trường Đại học của nhiều thế hệ sĩ quan quân đội ta, trong đó có anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Huy Hiệu. Từ một chiến sĩ, một sĩ quan cấp trung đội qua hàng chục năm chiến đấu, rèn luyện, tu nghiệp ông đã trở thành vị chỉ huy sư đoàn, quân đoàn trung kiên gan góc, dạn dày xứng đáng là vị tướng ba sao tài ba, thao lược.

Cuốn hồi ức không tránh khỏi một số khuyết điểm như chất văn học không theo kịp tính chính luận và sử liệu. Một số câu diễn đạt chưa thật sáng sủa, một vài tên riêng chưa chính xác… Cuốn sách còn nhiều thông tin thú vị khác như những ảnh phẩm sinh động về cuộc đời, về quê hương, gia đình, quá trình hoạt động xã hội, học tập và nhiều quan hệ của vị tướng với quân đội và các nhà hoạt động chính trị ở nhiều nước.

Bằng ký ức Một thời Quảng Trị, Nguyễn Huy Hiệu đã làm một công việc tri ngộ, tri ân đối với nhân dân Quảng Trị và quân đội của cả nước đã một thời chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị anh hùng. Mà trước hết là tri ân đối với đồng đội của ông đã ngã xuống để bồi đắp linh khí cho mảnh đất này, để mãi mãi tự hào về những người đã khuất.

  H.S.V

    

 

 

 

 

     (1) và (2) Ngô Thì Sĩ: Việt Sử Tiêu Án, NXB Thanh niên, tr.338, 339

     (*) Một thời Quảng Trị - Hồi ức do Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu kể - Lê Hải Triều thực hiện - Nhà xuất bản Quân đội nhân dân- Năm 2008

 

 
 
Hồ Sĩ Vịnh
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 183 tháng 12/2009

Mới nhất

Quãng vắng quạnh quẽ

33 Phút trước

Thêm áo quần đủ ấm, vợ lặng lẽ theo chồng ra chòi. Anh rắn rỏi, phong phanh, lảo đảo bước xuống chiếc xuồng. Đêm gần bờ sông trang gió, lạnh ùa tới quất từng cơn. Cái lạnh của miền Trung cứ ươn ướt, não nề.

Đồng cảm “Bốn mùa thương nhớ”

23/12/2024 lúc 17:07

Trong cuộc sống của con người thì sự ăn quan trọng vào bậc nhất. Cổ nhân có câu, dịch nghĩa ý rằng: Nước lấy dân làm trời, dân lấy ăn làm trời. Ăn không chỉ để sống, để tồn tại, để lao động, cống hiến mà còn là để khoái khẩu, để thưởng thức, suy ngẫm và trải nghiệm, đó là quan trọng như trải nghiệm ăn uống. Sự ăn không chỉ thỏa mãn đời sống vật dục tất yếu, bình thường và lành mạnh mà còn là văn hóa, hồn vía, là tâm tình, kỷ niệm, là da diết muôn vàn, đến nỗi một người Quảng Trị xa xứ như ký giả Nguyễn Linh Giang dường như cứ luôn mang mang tâm trạng hồi cố, hoài niệm theo Bốn mùa thương nhớ (tập tản văn, NXB Thanh Niên, 2024).

Ký ức chiến tranh trong truyện ngắn Văn Xương

23/12/2024 lúc 17:04

Văn Xương (tên thật Nguyễn Văn Bốn) không phải là một tác giả xuất hiện sớm và có thành tựu sáng tác nổi bật ở Việt Nam. Anh sinh năm 1959 và thuộc lớp những người cầm bút của thời kỳ đổi mới. Những truyện ngắn đầu tiên của anh được giới thiệu trên một số tạp chí, báo địa phương và trung ương khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã lùi xa.

Theo những bước quân hành

23/12/2024 lúc 17:00

Chủ đề người lính là một đề tài lớn, xuyên suốt trong dòng chảy văn học cách mạng Việt Nam và kéo dài đến hôm nay. Đó là một hiện thực khách quan bởi lịch sử đất nước gắn với trường kỳ kháng chiến; và khi xây dựng cuộc sống mới, thì người lính luôn là lực lượng xung kích đi đầu, đồng hành cùng nhân dân. Có thể hình dung sự vẻ vang ấy qua những tác phẩm trong tập sách Vang mãi khúc quân hành (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2024).

Nắng trên thành cổ; Người lính hát

23/12/2024 lúc 16:56

Nắng trên thành cổ Một rêu phong trên tường thành muôn năm cũMột nguyện cầu dài trong chấp chới tiếng chuông xaMột thanh xuân giữa ầm

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

27/12

25° - 27°

Mưa

28/12

24° - 26°

Mưa

29/12

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground