Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 29/03/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị khóa XVI tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025

Thực hiện Chỉ thị số 35 – CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Kế hoạch số 141-KH/TU, ngày 1/8/2019 của Tỉnh ủy về thực hiện Chỉ thị 35 - CT/TW; nhằm phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Quảng Trị trong tham gia góp ý xây dựng Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Ban Thường vụ Tỉnh ủy công bố dự thảo Báo cáo chính trị để cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân tham gia góp ý. Mọi ý kiến góp ý xin gửi về Tạp chí Cửa Việt, 128 Trần Hưng Đạo, TP Đông Hà, Quảng Trị trước ngày 20/8/2020; Email: tapchicuaviet@gmail.com 

 

Nhiệm kỳ qua, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Quảng Trị tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI trong bối cảnh có nhiều thuận lợi: Đất nước ngày càng hội nhập sâu và toàn diện theo hướng tích cực, chủ động, tạo cơ hội mới, môi trường mới cho hợp tác phát triển; những thành tựu to lớn đã đạt được sau 30 năm lập lại tỉnh là tiền đề, cơ sở để tỉnh tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, trong bối cảnh, tình hình thế giới, khu vực và cả nước có những diễn biến phức tạp, khó lường; điều kiện nguồn lực của tỉnh chưa đáp ứng với nhu cầu phát triển; thiên tai, dịch bệnh, sự cố ô nhiễm môi trường biển, nhất là đại dịch COVID-19 bùng phát từ đầu năm 2020... đã tác động trực tiếp và ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI và đời sống của Nhân dân trong tỉnh.

 

Song, với khát vọng phát triển, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh Quảng Trị đã phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, đạt được những kết quả quan trọng và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.

 

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT

ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XVI, NHIỆM KỲ 2015 - 2020

I. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC

1. Về kinh tế - xã hội

1.1. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tạo nguồn lực mới cho sự phát triển

 Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt 7,16%1, tăng 1,25 điểm % so với nhiệm kỳ trước và cao hơn bình quân chung của cả nước. Quy mô nền kinh tế gấp 1,41 lần so với năm 2015. GRDP bình quân đầu người đạt 55,4 triệu đồng/năm2, gấp 1,6 lần năm 2015, bằng 79,1% của cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực phi nông nghiệp từ 74,47% năm 2015 lên 78,49% năm 2020, giảm tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản từ 25,53% năm 2015 xuống còn 21,51% năm 20203.

 

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực; giá trị toàn ngành tăng bình quân 3,82%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết XVI. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai đồng bộ, khai thác tốt tiềm năng, lợi thế vùng, miền, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch rõ nét theo hướng sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, liên kết hợp tác, sản xuất nông nghiệp phát triển cả số lượng và giá trị. Sản lượng lương thực có hạt đạt 27,5 vạn tấn/năm, vượt 11% so với chỉ tiêu Nghị quyết XVI. Chăn nuôi chuyển mạnh sang hình thức trang trại, gia trại, thâm canh bán công nghiệp gắn với bảo đảm an toàn dịch bệnh và vệ sinh môi trường, liên kết theo chuỗi giá trị. Lâm nghiệp từng bước phát huy lợi thế; trồng rừng kinh tế, nhất là trồng rừng theo tiêu chuẩn quốc tế FSC phát triển mạnh, thuộc nhóm đầu cả nước; rừng tự nhiên được chú trọng bảo vệ; độ che phủ rừng năm 2020 đạt 50,1%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết XVI. Kinh tế biển được chú trọng phát triển. Thuỷ sản phát triển cả về nuôi trồng, đánh bắt và dịch vụ hậu cần nghề cá. Năng lực và hiệu quả đánh bắt trung và xa bờ ngày càng tăng. Tổng sản lượng thủy hải sản tăng bình quân hàng năm 1,07%. Các cơ sở thu mua, chế biến thủy sản, dịch vụ kho cảng phát triển mạnh; hình thành 2 trung tâm nghề cá là Cửa Việt và Cửa Tùng.

 

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được triển khai đồng bộ, quyết liệt. Đã chú trọng huy động, lồng ghép các nguồn lực để thực hiện các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao đời sống người dân. Diện mạo nông thôn có nhiều thay đổi, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được cải thiện. Toàn tỉnh có 57/101 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt tỷ lệ 56,4%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết XVI (40 - 50%)4, cao hơn mức bình quân chung của cả nước; xếp thứ 36/63 tỉnh, thành phố về kết quả xây dựng nông thôn mới; toàn tỉnh có 3 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu5 và 01 huyện đạt chuẩn nông thôn mới6 (là tỉnh đầu tiên và duy nhất hiện nay trong 3 tỉnh Bình Trị Thiên có huyện nông thôn mới).

 

Sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng trưởng khá. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt 11,42%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết XVI. Trong đó, đã chú trọng phát triển các ngành công nghiệp có thế mạnh như: dệt may, chế biến gỗ, chế biến thủy sản, năng lượng, nhất là năng lượng tái tạo. Đã có nhiều dự án về công nghiệp năng lượng, nhất là năng lượng tái tạo được đầu tư với tổng công suất phát điện lên đến 377MW, tăng gấp 3,7 lần so với đầu nhiệm kỳ7; nhiều dự án đang chuẩn bị triển khai hoặc được bổ sung vào quy hoạch, mở ra triển vọng đưa tỉnh Quảng Trị trở thành trung tâm năng lượng của miền Trung. Các chỉ tiêu thuộc lĩnh vực xây dựng đều đạt và vượt kế hoạch đề ra8.

 

Thương mại - du lịch - dịch vụ phát triển nhanh, một số ngành có tốc độ phát triển cao hơn chỉ tiêu Nghị quyết XVI. Hạ tầng thương mại, chất lượng dịch vụ từng bước phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng bình quân hàng năm 10,07%; thương mại điện tử có xu hướng phát triển mạnh. Từng bước xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch; mở được tuyến du lịch ra đảo Cồn Cỏ, làm cơ sở kết nối tam giác du lịch Cửa Việt - Cửa Tùng - Cồn Cỏ. Hoạt động kinh doanh vận tải thuận lợi, tốc độ tăng trưởng khá. Các dịch vụ như tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông phát triển nhanh.

 

Công tác quản lý, điều hành ngân sách có nhiều đổi mới, chặt chẽ, đúng quy định. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh 5 năm 2016 - 2020 đạt 14.105 tỷ đồng, thu nội địa bình quân hàng năm tăng 13,63%, chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết XVI9. Trong cơ cấu thu nội địa, thu tiền sử dụng đất chiếm tỷ trọng khoảng 25%. Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu giai đoạn 2016 - 2020 đạt 460 triệu USD, đạt chỉ tiêu Nghị quyết XVI. Hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh đã thực hiện kịp thời, hiệu quả các chương trình tín dụng của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương, nhất là hỗ trợ doanh nghiệp và phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

 

1.2. Môi trường đầu tư, kinh doanh tiếp tục được cải thiện, thu hút đầu tư đạt kết quả quan trọng; cộng đồng các doanh nghiệp từng bước vượt khó đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước thực hiện theo lộ trình; kinh tế tập thể có sự chuyển biến tích cực. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển khá

 

Công tác xúc tiến đầu tư, tạo môi trường đầu tư được tăng cường và chú trọng giải quyết khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp.  Môi trường đầu tư được cải thiện đáng kể; chỉ số PCI của tỉnh tuy chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết XVI nhưng đã tăng điểm qua từng năm (từ 57,32 điểm năm 2015 lên 63,84 điểm năm 2019, được xếp trong nhóm Khá của cả nước); chỉ số PAPI và chỉ số cải cách hành chính luôn thuộc nhóm đầu của cả nước.   

 

Huy động các nguồn vốn đầu tư được đẩy mạnh theo hướng xã hội hội hóa; chú trọng thực hiện các hình thức đầu tư theo phương châm Nhà nước và Nhân dân cùng làm, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện đạt 73.423 tỷ đồng, mặc dù chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết XVI (100.000 tỷ đồng) nhưng đã tăng 1,55 lần so với giai đoạn 2011 - 2015. Số dự án được cấp phép đầu tư tăng gấp 2,2 lần và tổng vốn đăng ký đầu tư tăng gấp 4,46 lần so với nhiệm kỳ trước.

 

Phát triển doanh nghiệp được quan tâm. Tỉnh đã lựa chọn chủ đề năm 2018 là “Năm Doanh nghiệp”, ban hành nhiều cơ chế, chính sách, đề ra giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; định kỳ tổ chức đối thoại với các doanh nghiệp; rút ngắn thời gian hoàn thành các thủ tục đối với doanh nghiệp10. Số lượng doanh nghiệp được thành lập mới tăng qua các năm, đến năm 2020, tổng số doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh gần 4.000 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký đạt 44.827,6 tỷ đồng; giải quyết việc làm cho khoảng hơn 44.000 lao động. Công tác cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước được thực hiện đúng lộ trình. Các doanh nghiệp nhà nước sau khi thực hiện cổ phần hóa đã phát huy hiệu quả, một số doanh nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao.

 

Khu vực kinh tế tập thể có sự chuyển biến tích cực11. Các hợp tác xã đã chuyển đổi hoạt động theo quy định của Luật Hợp tác xã 2012 và tiếp tục phát triển đa dạng, hình thành được nhiều dịch vụ, ngành nghề mới theo hướng liên doanh, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ hàng hóa; loại hình tổ hợp tác tăng đáng kể, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế ở nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh.

Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được đầu tư nâng cấp và xây dựng mới. Một số hạng mục công trình giao thông quan trọng kết nối Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị với Hành lang kinh tế Đông Tây, Khu kinh tế  - thương mại Lao Bảo, tam giác du lịch biển Cửa Việt - Cửa Tùng - Cồn Cỏ đã được bổ sung vào quy hoạch và đang từng bước triển khai thực hiện. Hạ tầng giao thông được chú trọng đầu tư, tạo sự liên kết vùng, miền và khu vực. Hệ thống đường bộ trên địa bàn nhiệm kỳ qua tăng thêm 1.605,87km; tổng vốn đầu tư cho lĩnh vực giao thông đạt trên 6.623 tỷ đồng. Nhiều công trình giao thông quan trọng đã được cải tạo, nâng cấp hoặc đầu tư xây dựng mới12. Các tuyến xe buýt được mở đến tất cả các huyện, thành, thị. Xây dựng và phát triển một số khu đô thị mới, hệ thống hạ tầng đô thị thiết yếu từng bước hoàn thiện, nhiều công trình hạ tầng xã hội được xây dựng13. Hạ tầng điện được phát triển rộng khắp. Hạ tầng cấp, thoát nước được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn đảm bảo cấp nước cho thành phố Đông Hà, thị xã Quảng Trị, các thị trấn huyện lỵ và một số xã. Hạ tầng bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin được quan tâm đầu tư, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển. Hạ tầng truyền dẫn sóng phát thanh, truyền hình được mở rộng. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp từng bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu thu hút đầu tư và triển khai thực hiện các dự án.

 

Hệ thống hạ tầng thủy lợi được đầu tư, nâng cấp cơ bản đồng bộ; hệ thống đê điều đầu tư khép kín với nhiều công trình trọng điểm, đảm bảo chủ động tưới, tiêu, phục vụ sản xuất14; hệ thống kè sông, kè biển được tập trung đầu tư tại các vị trí sạt lở cấp bách, nguy hiểm, góp phần chủ động phòng, chống thiên tai, ổn định đời sống dân cư, cải thiện cảnh quan đô thị và nông thôn vùng ven sông, ven biển.

 

1.3. Quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ngày càng chặt chẽ, hiệu quả

 

Tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình hành động số 52-CTHĐ/TU, ngày 13/12/2012 của Tỉnh ủy về định hướng khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Ban hành nhiều giải pháp để tăng cường công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản, kiểm tra, rà soát việc chấp hành pháp luật tài nguyên và môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản. Hoàn thiện điều tra cơ bản, đánh giá và xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường. Thực hiện nghiêm túc quy định của nhà nước về điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo quỹ đất, tăng thu ngân sách từ quỹ đất.

 

Công tác quản lý, bảo vệ môi trường được tăng cường. Việc bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ môi trường nguồn nước được chú trọng15. Thực hiện tốt chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ các hệ sinh thái ven biển, rừng ngập mặn, bảo vệ nguồn lợi thủy, hải sản và từng bước xây dựng Khu bảo tồn biển đảo Cồn Cỏ. Triển khai thực hiện có hiệu quả các dự án về bảo vệ và phát triển bền vững hệ sinh thái16. Các hoạt động bảo vệ môi trường ở các khu đô thị, khu, cụm công nghiệp và làng nghề được quan tâm. Các chỉ tiêu về môi trường được hoàn thành theo kế hoạch đề ra17.

 

1.4. Lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; các vấn đề xã hội được chú trọng thực hiện, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng lên

 

Sự nghiệp giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển theo hướng đổi mới gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Mạng lưới trường lớp được quy hoạch, sắp xếp lại phù hợp18; giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển19. Duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và xóa mù chữ. Chất lượng giáo dục đại trà được duy trì ổn định; chất lượng giáo dục mũi nhọn có bước phát triển khởi sắc, nhiều học sinh đạt giải cao tại các cuộc thi học sinh giỏi quốc gia, khu vực và quốc tế20.

 

Các chương trình, đề án đào tạo nghề cho người lao động được thực hiện theo hướng nâng cao chất lượng, gắn với nhu cầu thực tiễn và thị trường. Bước đầu đã có sự gắn kết giữa các cơ sở đào tạo nghề với các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong tuyển sinh, đào tạo và tiếp nhận lao động qua đào tạo. Thực hiện kịp thời chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho các đối tượng chính sách, lao động vùng biển bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường biển. Giai đoạn 2016 - 2020, đã đào tạo nghề  cho 60.947 người; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 66%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết XVI, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt 31%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết XVI.

 

Chất lượng chăm sóc sức khoẻ Nhân dân được nâng lên. Từng bước đầu tư hoàn thiện hệ thống các bệnh viện đa khoa và cơ sở điều trị khu vực. Hệ thống mạng lưới y tế được củng cố, 100% xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế, vượt chỉ tiêu Nghị quyết XVI; nguồn nhân lực ngành y tế được quan tâm phát triển21; trang thiết bị y tế được đầu tư, nhiều kỹ thuật mới, hiện đại về khám, chữa bệnh được triển khai ứng dụng; chất lượng khám, chữa bệnh, tinh thần thái độ phục vụ đối với bệnh nhân chuyển biến tích cực; quản lý hành nghề y dược tư nhân, thanh tra, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm đạt một số kết quả quan trọng. Ngành Y tế tỉnh đã thể hiện tốt vai trò nòng cốt, chủ động, tích cực phối hợp với các cấp, các ngành tham gia cuộc chiến phòng, chống dịch bệnh Covid-19 bảo đảm phản ứng nhanh, kịp thời, hành động đúng, quyết liệt, hiệu quả; không để xảy ra trường hợp nhiễm bệnh.

 

Công tác dân số được quan tâm thực hiện tốt. Công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có bước chuyển biến tích cực. Tỷ lệ trẻ em tử vong dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi thấp hơn bình quân chung của cả nước. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95,5% năm 2020, vượt chỉ tiêu Nghị quyết XVI.

 

Văn hoá, thể dục, thể thao có những mặt chuyển biến tích cực. Đời sống văn hóa tinh thần của Nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy, một số chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Tỉnh đã tổ chức thành công các sự kiện chính trị, các ngày lễ lớn, nhất là kỷ niệm 30 năm lập lại tỉnh và một số lễ hội mang nét đặc trưng riêng của Quảng Trị, để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn bè trong và ngoài nước22. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" gắn với chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, trọng tâm là xây dựng gia đình, họ tộc, thôn bản, cơ quan văn hóa được đẩy mạnh23. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển rộng khắp, đa dạng loại hình; một số vận động viên của tỉnh đạt thành tích cao tại các giải quốc gia và quốc tế. Nhiều thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất và hoạt động thể thao được thực hiện từ nhiều nguồn lực xã hội. Công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể được quan tâm.

 

Hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, sáng tác văn học, nghệ thuật có bước phát triển cả về hình thức và nội dung, góp phần quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Quy mô, chất lượng các loại hình báo chí được nâng lên. Truyền hình Quảng Trị đã phát sóng trên vệ tinh Vinasat phục vụ tốt nhu cầu của Nhân dân. Công tác quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, thông tin, truyền thông được tăng cường. Việc quy hoạch mạng lưới báo chí, xuất bản của tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được thực hiện nghiêm túc, đúng định hướng của Trung ương và phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động các cơ quan, tổ chức ngày càng rộng rãi24. Cổng giao tiếp dịch vụ công trực tuyến tỉnh Quảng Trị phát huy hiệu quả25, kết nối với Cổng thông tin điện tử Chính phủ đã hỗ trợ thiết thực cho người dân và doanh nghiệp. Hoạt động văn học nghệ thuật có nhiều chuyển biến rõ nét với những sáng tác mới mang giá trị về tư tưởng và nghệ thuật cao, đóng góp quan trọng cho nền văn học, nghệ thuật của cả nước.

 

Hoạt động khoa học công nghệ có nhiều tiến bộ, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều tiến bộ kỹ thuật, mô hình ứng dụng khoa học kỹ thuật được áp dụng trong sản xuất đạt kết quả cao. Hình thành các cơ sở nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng các quy trình, công nghệ vào sản xuất đối với các loại cây trồng, con nuôi mới, quý, có giá trị kinh tế cao. Công tác hướng dẫn, hỗ trợ các đơn vị, địa phương xây dựng và phát triển thương hiệu được chú trọng, góp phần đưa sản phẩm của Quảng Trị đến với thị trường trong nước và thế giới. Yếu tố năng suất, chất lượng, hàm lượng khoa học và công nghệ trong sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng.

 

Công tác giải quyết việc làm, giảm nghèo; chăm sóc người có công, đảm bảo an sinh xã hội, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo đạt kết quả tích cực. Triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình giải quyết việc làm, tạo được sự đột phá trong xuất khẩu lao động; quan tâm thực hiện các chính sách hỗ trợ ổn định đời sống, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho Nhân dân vùng bị ảnh hưởng sự cố môi trường biển26. Tạo việc làm mới giai đoạn 2016 - 2020 thực hiện được 61.712 người, vượt chỉ tiêu Nghị quyết XVI, trong đó làm việc tại địa phương khoảng 35.016 người; tỷ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm từ 3,7% xuống còn 2,7%. Công tác giảm nghèo bền vững được quan tâm chỉ đạo với các giải pháp đồng bộ, phù hợp, ưu tiên nguồn lực đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh đã giảm từ 15,43% xuống còn 6,43%, giảm bình quân 1,77%/năm, đạt chỉ tiêu Nghị quyết XVI. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các gia đình chính sách, người có công với cách mạng, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; huy động được nhiều nguồn lực để đầu tư xây dựng, nâng cấp, tôn tạo các nghĩa trang liệt sỹ, các công trình tri ân và chăm sóc người có công với cách mạng27

 

Các chủ trương, chính sách dân tộc được triển khai thực hiện kịp thời, hiệu quả; các chương trình, dự án, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng thực hiện, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của đồng bào. Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo được tăng cường, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật.

 

1.5. Hoạt động đối ngoại ngày càng mở rộng, phát huy hiệu quả

 

Công tác đối ngoại được chú trọng, thực hiện đồng bộ đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân. Quan hệ đối ngoại, hợp tác hữu nghị giữa tỉnh với các đối tác, bạn bè quốc tế được tăng cường và mở rộng28, nhất là quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện các tỉnh của nước bạn Lào tiếp tục được giữ gìn, phát huy và đi vào chiều sâu. Lãnh đạo tỉnh và một số ban, ngành và đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh; các huyện giáp biên giới với nước bạn Lào và các cơ quan, địa phương đồng cấp của các tỉnh bạn đã duy trì tốt cơ chế hội đàm thường niên, trao đổi đoàn, trao đổi kinh nghiệm về phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, góp phần duy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác đặc biệt hữu nghị Việt Nam - Lào. Công tác đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ hai tỉnh Salavan và Savannakhet của nước bạn Lào được duy trì và đạt nhiều kết quả quan trọng.

 

Tỉnh ủy ban hành và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 25/7/2017 về tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tỉnh đã tổ chức thành công nhiều hội nghị xúc tiến đầu tư29; tham gia nhiều sự kiện quốc tế và khu vực để mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại và quảng bá, xúc tiến, vận động đầu tư; huy động được số vốn nước ngoài đăng ký thực hiện gần 7.375 tỷ đồng30, tăng 1,9 lần so với giai đoạn 2011 - 2015. Các nhà tài trợ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài có quan hệ hợp tác lâu năm31 tiếp tục hỗ trợ tỉnh về khắc phục hậu quả bom mìn, phát triển cộng đồng, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện dịch vụ y tế... Vốn NGOs tăng 70% so với nhiệm kỳ trước; hoạt động xúc tiến FDI được tăng cường; hỗ trợ, tạo điều kiện doanh nghiệp hội nhập quốc tế.

 

2. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo

 

Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, trọng tâm là các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược quốc phòng, an ninh; về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân được tăng cường. Hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh, cấp huyện, gắn với diễn tập phòng, chống phá rối an ninh, biểu tình, bạo loạn, khủng bố. Thực hiện tốt nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; chủ động diễn tập và tham gia cứu hộ, cứu nạn, phòng cháy chữa cháy, kịp thời cùng với chính quyền, ban, ngành các cấp và Nhân dân phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh. Các tiềm lực trong khu vực phòng thủ, nhất là tiềm lực chính trị - tinh thần, thế trận lòng dân được chú trọng xây dựng. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với quốc phòng an ninh; quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhất là với các tỉnh bạn Lào có chung đường biên giới.

 

Triển khai đồng bộ các kế hoạch, biện pháp, giải pháp đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động. Tập trung chỉ đạo kịp thời quyết liệt, hiệu quả trong phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và những vấn đề phức tạp nảy sinh về an ninh trật tự ngay từ cơ sở; bảo vệ an toàn tuyệt đối các mục tiêu và sự kiện quan trọng của tỉnh. Công tác đảm bảo an toàn giao thông, phòng chống cháy, nổ được chú trọng. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia ngày càng được nâng cao về chất lượng và hiệu quả, phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của hệ thống chính trị trong công tác quốc phòng - an ninh. An ninh biên giới giữ vững, không để xảy ra bất ngờ, không có “điểm nóng” bảo vệ vững chắc chủ quyền, biên giới, biển đảo, góp phần xây dựng môi trường ổn định, an toàn để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

 

Tỉnh đã chú trọng kiện toàn, nâng cao chất lượng toàn diện các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Xây dựng lực lượng công an, quân đội vững mạnh, sẵn sàng đối phó, ngăn chặn và kịp thời đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Công tác tuyển quân hàng năm đều hoàn thành chỉ tiêu, chất lượng thanh niên nhập ngũ ngày càng được nâng cao. Công tác xây dựng lực lượng thường trực, dân quân tự vệ và dự bị động viên đảm bảo yêu cầu về số lượng và chất lượng. Thực hiện tốt chủ trương của Bộ Công an đưa lực lượng Công an chính quy về đảm nhiệm các chức danh công an xã trên địa bàn, góp phần đảm bảo an ninh trật tự ở địa phương, cơ sở.

 

3. Xây dựng bộ máy chính quyền tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện

 

Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo tổ chức thành công cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XIV và Đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh tiếp tục được cải tiến và có nhiều đóng góp tích cực, hiệu quả vào hoạt động của Quốc hội, nhất là trong công tác xây dựng pháp luật, tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Phát huy vai trò, trách nhiệm của người đại biểu nhân dân, thực hiện tốt chức trách, đưa tiếng nói của cử tri Quảng Trị đến với diễn đàn Quốc hội, góp phần thực hiện có hiệu quả các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước.

 

HĐND các cấp đã từng bước phát huy vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân. HĐND tỉnh đã tích cực đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng kỳ họp, bảo đảm đúng quy định của pháp luật; đồng thời, kịp thời thể chế hóa các chủ trương của cấp ủy thành cơ chế, chính sách, tạo khuôn khổ, môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Việc tiếp thu và giải quyết những kiến nghị của cử tri được thực hiện kịp thời.

 

Hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp có nhiều đổi mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý được nâng lên. Công tác chỉ đạo, điều hành được thực hiện theo hướng bám sát các chủ trương, định hướng lớn, xác định các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm để chỉ đạo thực hiện; trong năm 2019, 2020 đã quyết liệt tập trung chỉ đạo cùng cả nước phòng, chống hiệu quả dịch tả lợn Châu Phi, đại dịch Covid-19, không để bùng phát lây lan ra cộng đồng; có nhiều giải pháp để khôi phục và lấy lại đà tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình các kiến nghị, đề xuất có tiến bộ hơn. Tổ chức bộ máy từng bước được tinh gọn; đội ngũ cán bộ công chức, viên chức được cơ cấu lại theo vị trí việc làm; tinh thần trách nhiệm và đạo đức công vụ được nâng lên.

 

Công tác cải cách hành chính của tỉnh đã đạt được những kết quả tích cực trên các lĩnh vực: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, cải cách thủ tục hành chính và thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông. Chỉ số PAPI và chỉ số cải cách hành chính luôn thuộc nhóm đầu của cả nước. Thành lập và đưa Trung tâm hành chính công cấp tỉnh, Trung tâm xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch đi vào hoạt động, từng bước phát huy hiệu quả.

 

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, rà soát, kiểm tra, theo dõi thi hành văn bản pháp luật được duy trì thường xuyên. Công tác bổ trợ tư pháp được quan tâm chỉ đạo, đầu tư đúng định hướng. Hoạt động thanh tra được triển khai thực hiện theo đúng chương trình, kế hoạch; chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Công tác tiếp công dân, xử lý và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của công dân ngày càng đi vào nền nếp. Các biện pháp phòng ngừa tham nhũng được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc, đúng quy định.

 

4. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội được phát huy

 

Bám sát đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng các lĩnh vực công tác theo hướng rõ chức năng, nhiệm vụ, hướng về cơ sở. Chủ động phối hợp với chính quyền các cấp, với các tổ chức thành viên hướng hoạt động đến cộng đồng dân cư và từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; vận động, hỗ trợ Nhân dân trong sản xuất, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ sinh kế, khởi nghiệp, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, vươn lên làm giàu chính đáng, hợp pháp. Tích cực tuyên truyền, vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước32 với nhiều cách làm sáng tạo, xây dựng được nhiều mô hình mới, hiệu quả, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Các hoạt động an sinh xã hội, chăm lo, hỗ trợ cho người nghèo, các gia đình chính sách, đối tượng khó khăn được đổi mới theo hướng vừa trực tiếp vận động, vừa hướng dẫn, kết nối đến các địa chỉ cụ thể cần được hỗ trợ, giúp đỡ, gắn với đẩy mạnh phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo- không để ai bị bỏ lại phía sau”.33 Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đã chủ động, có nhiều cách làm hay, sáng tạo trong việc tổ chức các nhóm tuyên truyền, thành lập được lực lượng nòng cốt tham gia hoạt động ở các địa bàn khu dân cư, kịp thời nắm bắt tình hình Nhân dân và dư luận xã hội, phối hợp giải quyết tốt các vấn đề nổi lên ở cơ sở 34.  

 

Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền được chú trọng, góp phần phát hiện và kiến nghị các cấp ủy, chính quyền khắc phục những hạn chế, bất cập trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành35. Công tác phát triển đoàn viên, hội viên được đẩy mạnh; đã tích cực triển khai thực hiện Đề án phát triển tổ chức đảng, đảng viên và các đoàn thể chính trị - xã hội trong doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2016 – 2020 và đạt nhiều kết quả36. Các tổ chức Hội quần chúng chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quản lý của chính quyền, hoạt động đúng pháp luật và Điều lệ Hội, bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, tự quản, từng bước tự bảo đảm kinh phí hoạt động; ngày càng thể hiện rõ vai trò tập hợp, đoàn kết, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên và Nhân dân, nhất là những người “yếu thế” trong xã hội.

 

Chủ động kết nối, động viên đồng bào Quảng Trị ở nước ngoài và các tỉnh, thành phố trong nước hướng về quê hương, đóng góp xây dựng Quảng Trị ngày càng phát triển.

 

5. Công tác xây dựng Đảng được triển khai đồng bộ, quyết liệt, có nhiều điểm mới sáng tạo, hiệu quả, trọng tâm là tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, Trung ương 6 khóa XII đạt kết quả quan trọng, khẳng định rõ vai trò, nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng

 

5.1. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức được tăng cường

 

Cấp ủy các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới và nâng cao chất lượng công tác chính trị. Các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được quán triệt nghiêm túc và cụ thể hoá bằng các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện phù hợp, sát với tình hình địa phương. Kịp thời sơ kết, tổng kết thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương và của Tỉnh ủy, qua đó rút ra nhiều vấn đề để nghiên cứu lý luận, nâng cao chất lượng các quyết định lãnh đạo. Cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị đã thể hiện năng lực, bản lĩnh, tinh thần quyết liệt trong chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ, trong đó, chú trọng tháo gỡ những việc khó, phức tạp của địa phương, cơ sở, những bức xúc của Nhân dân; nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, gương mẫu đi đầu trong công tác, đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống đạt được kết quả nổi bật trên các lĩnh vực.

 

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, học tập chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh được đẩy mạnh, nội dung, hình thức đa dạng, phong phú. Ban hành Đề án“Nâng cao chất lượng học tập lý luận chính trị, nghiên cứu, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng trong cán bộ, đảng viên” với nhiều giải pháp mới được triển khai trong toàn Đảng bộ. Chú trọng đổi mới về phương pháp học tập nghị quyết, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị; bồi dưỡng cập nhật lý luận, kiến thức mới, nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, sức chiến đấu của Đảng bộ và năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tích cực chỉ đạo thực hiện quy định của Đảng về kỷ luật phát ngôn, bảo vệ bí mật của Đảng và đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Công tác nắm bắt tình hình tư tưởng được các cấp ủy chú trọng, kịp thời xử lý những vấn đề nổi cộm, ổn định an ninh tư tưởng. Tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.

 

Thiết lập và duy trì cơ chế phản hồi thông tin đối với những vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm, góp phần chấn chỉnh những hạn chế trong điều hành quản lý, đồng thời, giữ vững ổn định tư tưởng, tâm trạng người dân trên địa bàn, hạn chế tình trạng khiếu kiện, tụ tập đông người. Công tác lãnh đạo, định hướng hoạt động của báo chí được coi trọng, chấn chỉnh kịp thời các thông tin sai lệch, góp phần định hướng tư tưởng trong xã hội. Công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử của các ngành, địa phương và công tác giáo dục truyền thống cách mạng được thực hiện tích cực.

Xây dựng Đảng về đạo đức được đề cao. Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” được thực hiện đồng bộ với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Chủ động gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên thông qua chủ đề, chủ điểm hàng năm37.

 

Tổ chức thực hiện có chiều sâu Diễn đàn “Vai trò của chi bộ trong việc giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ”, trở thành sinh hoạt chuyên đề của các chi bộ, góp phần giúp đảng viên tự soi, tự sửa, tự phê bình và phê bình, đề ra các giải pháp khắc phục, góp phần ngăn ngừa các vi phạm. Ban hành và chỉ đạo thực hiện quyết liệt Quy định về trách nhiệm nêu gương của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các cấp trong tỉnh với các nội dung “7 xây, 7 chống”, giúp cán bộ, đảng viên, người đứng đầu nêu gương, rèn luyện đạo đức lối sống, đồng thời tự soi tự sửa, tự điều chỉnh hành vi. Trong nhiệm kỳ, đã triển khai thực hiện chủ trương cam kết trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu với Ban Thường vụ Tỉnh ủy và cấp ủy các cấp, với các nội dung “giao việc, đặt hàng” gắn với trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, là điểm nhấn nổi bật, mang lại hiệu quả tích cực trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chuyển tải thông điệp mạnh mẽ của người đứng đầu các cấp, các ngành về quyết tâm chính trị, trách nhiệm nêu gương, kỷ cương kỷ luật, nói đi đôi với làm, tác động tích cực đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

 

5.2. Tổ chức bộ máy hệ thống chính trị được sắp xếp tinh gọn, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động

 

Việc kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa XII đã được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm chính trị cao, tổ chức thực hiện quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình phù hợp và cách làm sáng tạo. Đã thực hiện việc sắp xếp 33 đơn vị hành chính cấp xã38, 522  thôn, bản, khu phố39; sắp xếp, tổ chức lại bộ máy của cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh và các Hội quần chúng40, các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND tỉnh41, đơn vị sự nghiệp công lập42 theo hướng tinh gọn bộ máy và biên chế; hợp nhất Đảng bộ Khối Các cơ quan tỉnh và Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh. Các mục tiêu, chỉ tiêu về thí điểm hợp nhất các cơ quan, đơn vị, nhất thể hóa chức danh cơ bản theo đúng kế hoạch đề ra; việc bố trí một số chức danh không phải là người địa phương được quan tâm. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện phù hợp hơn, từng bước khắc phục sự trùng lắp, chồng chéo. Việc sắp xếp bộ máy hệ thống chính trị, thực hiện thí điểm một số mô hình tổ chức mới đã góp phần giảm đầu mối, giảm cấp trung gian, giảm số lượng cán bộ lãnh đạo, giảm biên chế và giảm chi thường xuyên; hiệu lực, hiệu quả hoạt động bước đầu được nâng lên43. Công tác quản lý biên chế ngày càng thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ hơn với việc quy định Ban Thường vụ Tỉnh ủy là cấp có thẩm quyền quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của toàn hệ thống chính trị địa phương. Việc tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị được chỉ đạo và thực hiện theo đúng lộ trình.

 

5.3. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên được chú trọng và có nhiều chuyển biến tích cực.

 

Đã sắp xếp tổ chức đảng đồng bộ với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở cơ sở, qua đó, giảm 18 tổ chức cơ sở đảng và 268 chi bộ trực thuộc; giải thể chi bộ cơ quan xã, phường, thị trấn, đưa đảng viên về sinh hoạt ở các chi bộ khu dân cư, gắn với việc phân công cấp ủy viên phụ trách tổ chức đảng, trực tiếp dự sinh hoạt chi bộ, phân công đảng viên theo dõi, phụ trách một số hộ gia đình, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng ở khu dân cư, từng bước khắc phục tình trạng cán bộ, công chức xa dân. Hầu hết các cơ quan, đơn vị đã thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị; việc thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch HĐND hoặc chủ tịch UBND ở cấp xã, bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, khu phố hoặc trưởng ban công tác Mặt trận thôn được đẩy mạnh thực hiện.

 

 Chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ được nâng lên, nội dung có bước đổi mới, nhất là việc gắn với sinh hoạt dưới cờ vào thứ hai tuần đầu tiên hằng tháng, sinh hoạt diễn đàn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và chấm điểm từng phiên sinh hoạt chi bộ theo bộ tiêu chí, đã khắc phục tình trạng đơn điệu, hình thức, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu. Trong nhiệm kỳ, đã triển khai đánh giá, xếp loại đối với đảng bộ, ban thường vụ cấp ủy cấp huyện, ban cán sự đảng, đảng đoàn, tổ chức cơ sở đảng và đảng viên liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm cụ thể, có sự so sánh giữa các vị trí tương đương và công khai kết quả; gắn đánh giá, xếp loại cá nhân với tập thể và với kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, đơn vị... Nhờ vậy, việc đánh giá chính xác, thực chất hơn, góp phần năng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ đảng viên, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh44.

 

 Việc phát triển đảng viên luôn coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng; chú trọng phát triển đảng viên ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước, khu dân cư, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo, nhờ vậy, số lượng đảng viên kết nạp bình quân hằng năm và trong cả nhiệm kỳ đều vượt chỉ tiêu đề ra45, khắc phục tình trạng thôn, bản chưa có đảng viên và chi bộ sinh hoạt ghép46. Việc rà soát, sàng lọc đảng viên được tiến hành chặt chẽ và thận trọng47, nhờ vậy, chất lượng đội ngũ đảng viên được nâng lên48, cơ cấu đội ngũ đảng viên chuyển biến theo chiều hướng tích cực, đại đa số đảng viên giữ vững bản lĩnh chính trị, kiên định đường lối đổi mới đất nước, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu, từng bước đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ được giao.

 

5.4. Công tác cán bộ có nhiều chuyến biến tích cực

 

Xác định xây dựng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng, cấp ủy các cấp đã tập trung chỉ đạo công tác cán bộ; bổ sung, hoàn thiện, cụ thể hóa các quy định của Trung ương về công tác cán bộ gắn với việc rà soát, sửa đổi, bãi bỏ các văn bản không còn phù hợp, bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Tập trung thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII “về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.

 

Công tác nhận xét, đánh giá cán bộ đã có sự chuyển biến tích cực, nhất là sau khi triển khai thực hiện đồng bộ Quy chế và Bộ Tiêu chí đánh giá cán bộ49. Công tác quy hoạch cán bộ được chú trọng nâng cao chất lượng50, có cơ cấu ngày càng hợp lý hơn, tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số được nâng lên51. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm; thực hiện bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ nguồn. Công tác đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử được thực hiện chặt chẽ theo quy trình “6 bước” thống nhất từ cấp tỉnh đến cấp huyện, nhân sự bổ nhiệm được rà soát kỹ về điều kiện, tiêu chuẩn52. Công tác luân chuyển cán bộ được chú trọng thực hiện53. Thường xuyên củng cố, kiện toàn cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, các chức danh lãnh đạo chủ chốt các cấp. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên được thực hiện đầy đủ, kịp thời.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng. Việc thẩm tra, xác minh, thẩm định tiêu chuẩn chính trị được tiến hành chặt chẽ, trong đó, các cấp ủy, tổ chức đảng đã coi trọng hơn việc xem xét, xử lý các vấn đề về chính trị hiện nay, nhất là những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

 

5.5. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường

 

Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định của Đảng. Triển khai quán triệt đầy đủ các quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát.

 

Cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã xây dựng và triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát đúng Điều lệ Đảng và quy định của Trung ương, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Số lượng, chất lượng các cuộc kiểm tra, giám sát được nâng lên đáng kể54. Bên cạnh việc tập trung cho nhiệm vụ trọng tâm là kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã mở rộng công tác giám sát, gắn kiểm tra, giám sát tập thể với trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương, đơn vị. UBKT các cấp cũng đã xem xét giải quyết nhiều vụ việc có nội dung, tính chất phức tạp, nổi cộm liên quan nhiều ngành, nhiều lĩnh vực; giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo, khiếu nại; tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm (kể cả kiểm tra cách cấp) đối với tổ chức đảng, đảng viên55, góp phần ngăn ngừa vi phạm, giữ nghiêm kỷ luật Đảng.

 

Thực hiện quy chế phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan ngày càng đi vào nề nếp, chặt chẽ hơn, nhất là xử lý các đơn, thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến cấp ủy viên, cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý. Việc chấp hành kỷ luật và việc thi hành kỷ luật trong Đảng được Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và cấp uỷ, ủy ban kiểm tra các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thẩm quyền và quy định của Đảng; chỉ đạo xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng quy định đối với những cá nhân, tổ chức đảng vi phạm. Công tác phúc tra sau kiểm tra, giám sát được tăng cường.

 

Trong xem xét, xử lý kỷ luật, các tổ chức đảng có thẩm quyền đã kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục và tư tưởng nên hạn chế tối đa việc khiếu nại kỷ luật đảng. Thực hiện nghiêm túc việc công khai kết luận kiểm tra và xử lý vi phạm đối với tổ chức đảng, đảng viên trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh, có tác dụng tích cực trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên. Hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng đã có tác động tích cực trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, phòng ngừa, hạn chế sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Trong nhiệm kỳ, đã xem xét xử lý kỷ luật 16 tổ chức đảng, 1.355 đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng56có 29 trường hợp bị phạt tù.

 

5.6. Công tác nội chính, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí có chuyển biến tích cực

 

Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và cấp ủy các cấp đã chú trọng chỉ đạo triển khai thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác nội chính, phòng chống tham nhũng.

 

Các cơ quan nội chính, các cơ quan tư pháp triển khai tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, phối hợp giải quyết dứt điểm, có hiệu quả các vụ án, vụ việc nổi cộm, dư luận xã hội quan tâm; rà soát, lựa chọn các vụ án, vụ việc đưa vào diện Thường trực Tỉnh uỷ theo dõi, chỉ đạo hàng năm (bình quân 06 vụ việc mỗi năm); kịp thời chỉ đạo, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, đề xuất trong thực hiện nhiệm vụ của từng địa phương, đơn vị về công tác nội chính, phòng chống tham nhũng. Chỉ đạo rà soát đơn thư khiếu nại, tố cáo để xử lý các vụ việc tồn đọng, phức tạp. Thực hiện nghiêm túc Quy định 11-QĐ/TW, ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân.

 

Triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức được thực hiện đúng quy định. Công tác kiểm tra, giám sát và rà soát các cuộc thanh tra kinh tế - xã hội được chú trọng; việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, vụ án kinh tế được chỉ đạo tích cực.

 

Ban Thường vụ Tỉnh ủy và ban cán sự đảng, đảng đoàn các cơ quan tư pháp đã bám sát nội dung, yêu cầu của Trung ương và yêu cầu nhiệm vụ của địa phương để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động bổ trợ tư pháp từng bước được nâng cao, không có vụ án, bị can khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không có tội; vai trò của luật sư trong các vụ án hình sự, dân sự được khẳng định, chất lượng, kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác theo dõi thi hành pháp luật và pháp chế ngày càng đi vào nền nếp, các vụ việc khó thi hành án dần dần được tháo gỡ. Các điều kiện bảo đảm cho hoạt động của cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp được quan tâm đầu tư. Hệ thống tổ chức bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án hai cấp và các cơ quan tư pháp thường xuyên được kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động.

 

5.7. Công tác dân vận có nhiều đổi mới, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân được tăng cường

 

Các cấp ủy, tổ chức đảng đã làm tốt việc triển khai quán triệt, cụ thể hóa nghị quyết của Trung ương liên quan đến công tác dân vận; phát huy vai trò của đảng viên, cấp ủy viên, người đứng đầu trong công tác dân vận. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng về công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và công tác hội quần chúng được tăng cường và đổi mới. Đã phát động và tổ chức nhiều phong trào, cuộc vận động gắn với phong trào thi đua “Dân vận khéo”, “Học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh” thu hút đông đảo đoàn viên, hội viên và Nhân dân tham gia, tạo sự lan tỏa tích cực trong cộng đồng xã hội.

 

Công tác dân vận của chính quyền các cấp có bước tiến bộ rõ nét trong cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng thành các đề án, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với thực tiễn của địa phương, đảm bảo xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; lấy nhiệm vụ cải cách hành chính làm nội dung trọng tâm của công tác dân vận; từng bước thay đổi nhận thức, nâng cao trách nhiệm phục vụ Nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức. Công tác tiếp và đối thoại với dân của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền từng bước đi vào nền nếp. Thực hiện Quy chế dân chủ ở sơ sở được các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội quan tâm chỉ đạo, trong đó, việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã phát huy được vai trò của Nhân dân tham gia giám sát các nguồn quỹ, đầu tư cộng đồng, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; thực hiện quy chế dân chủ trong các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp đi vào nền nếp; thực hiện dân chủ trong doanh nghiệp có chuyển biến tích cực, thúc đẩy thi đua lao động sản xuất, tăng năng suất lao động.

 

Các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc, tôn giáo được tổ chức thực hiện tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ hoạt động theo đúng quy định của pháp luật, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố niềm tin và mối quan hệ mật thiết giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước.

 

5.8. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng tiếp tục đổi mới

 

Tỉnh ủy và các cấp ủy đã chủ động xây dựng hệ thống văn bản khung, nhất là quy chế làm việc, chương trình, kế hoạch, các quy định, quy trình công tác, bảo đảm thực hiện đúng thẩm quyền lãnh đạo của cấp ủy đảng. Trong nhiệm kỳ đã ban hành 05 nghị quyết chuyên đề; 24 chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết các hội nghị Trung ương 4,5,6,7, 8, các nghị quyết chuyên đề của Bộ Chính trị và nhiều quy định, quy chế, văn bản lãnh đạo, chỉ đạo trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.

 

Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp đã bám sát quy chế làm việc, tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng; luôn phát huy vai trò của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Do đó, việc lãnh đạo của các cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở cơ bản đi vào nền nếp, bài bản và có hệ thống, phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ.

 

Hoạt động của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy luôn chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách lề lối làm việc theo hướng khoa học, hiệu quả, quyết tâm và quyết liệt trên tinh thần lãnh đạo toàn diện, bao quát, có trọng tâm, trọng điểm, không bao biện làm thay nhưng không buông lỏng. Phát huy tốt vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính trị thông qua việc xây dựng chỉ thị, nghị quyết, các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể, sát với yêu cầu thực tiễn. Cùng với tăng cường công tác xây dựng đảng, cấp ủy tỉnh đã tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quyết định các chủ trương về phát triển kinh tế - xã hội, phân bổ nguồn lực tài chính, khai thác, sử dụng tài nguyên; quy hoạch, kế hoạch và các dự án lớn... theo thẩm quyền; đồng thời, chỉ đạo giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn.

 

Xác định chủ đề từng năm gắn với cam kết trách nhiệm người đứng đầu, trở thành việc làm thường xuyên của các cấp ủy đảng, góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo. Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp được phát huy; phong cách, lề lối làm việc được đổi mới theo hướng bám sát thực tiễn, sâu sát cơ sở. Cải cách hành chính trong Đảng có tiến bộ.

 

ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT: Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với quyết tâm chính trị cao, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân toàn tỉnh đã phát huy truyền thống đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, đạt được những kết quả quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh năm sau cao hơn năm trước và cao hơn mức tăng bình quân của cả nước; cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng hướng; đã xác định được hướng đi phù hợp trong phát triển kinh tế - xã hội, biến khó khăn, bất lợi thành tiềm năng, lợi thế của địa phương. Huy động và sử dụng vốn đầu tư toàn xã hội có hiệu quả; nhiều dự án trọng điểm đã được khởi động. Văn hóa - xã hội đạt được nhiều tiến bộ; an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện. Tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; giữ vững ổn định an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Công tác đối ngoại được đẩy mạnh, góp phần thu hút nguồn lực cho phát triển. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân được phát huy. Công tác xây dựng Đảng có nhiều điểm mới sáng tạo, hiệu quả. Bộ máy chính quyền tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thông suốt. Đảng bộ đoàn kết, sáng tạo, Nhân dân đồng thuận, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện cơ bản đạt mục tiêu “đưa Quảng Trị đạt trình độ phát triển trung bình của cả nước”57.

 

Những kết quả đạt được của nhiệm kỳ 2015 - 2020 càng khẳng định và làm nổi bật lên những thành tựu của tỉnh sau 30 năm lập lại (1989-2019). Nhìn lại sau 30 năm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư phát triển vượt bậc. Nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, bình quân mỗi năm đạt 7,8%; tính theo giá so sánh thì quy mô nền kinh tế năm 2019 bằng 9,5 lần năm 1989; GRDP bình quân đầu người năm 2019 bằng 6,9 lần năm 1989. Sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp đã thực sự trở thành ngành sản xuất hàng hóa quan trọng. Sản xuất công nghiệp đã đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hoạt động thương mại - dịch vụ quy mô ngày càng tăng với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế. Du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn. Các vấn đề xã hội được tập trung giải quyết có hiệu quả; đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng lên. Hạ tầng kinh tế, xã hội được quan tâm đầu tư; phát triển hài hòa giữa thành thị - nông thôn, đồng bằng - miền núi. Chính trị ổn định, quốc phòng - an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội bảo đảm. Công tác xây dựng Đảng có nhiều đổi mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn lịch sử. Ba mươi năm qua là chặng đường có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân toàn tỉnh, cùng với những kết quả đạt được của nhiệm kỳ 2015-2020 sẽ tạo tiền đề, nền móng vững chắc cho quê hương phát triển.

Đây là thành quả quan trọng từ sự nỗ lực, phấn đấu bền bỉ của Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh nhà, sự kế thừa và phát huy thành tựu của tỉnh trong nhiều nhiệm kỳ qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ, giúp đỡ sâu sát, thiết thực, kịp thời của Trung ương Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương; sự hỗ trợ, hợp tác tích cực của các địa phương trong cả nước.

PV
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 311

Mới nhất

Bộ từ điển bỏ lại giữa rừng sâu

5 Giờ trước

Sau hiệp định Pari, 27/1/1973, chiến tranh tạm dừng, đại đội tôi đóng quân giữa bãi cát Lệ Xuyên, huyện

Đi tìm cỏ

5 Giờ trước

Nhiều lúc ngồi thẫn thờ nhìn đàn trâu bò gặm cỏ dọc triền đê chợt giật mình: Cỏ quê

Chị ấy…

5 Giờ trước

Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế tổ chức một chuyến đi thực tế dài ngày tại Tổng Công

Pa Ling mùa mưa

6 Giờ trước

Tháng 11, dưới cơn mưa rừng tầm tã, chúng tôi tìm về thôn Pa Ling, xã A Vao, huyện Đakrông,

Chiều không tắt nắng

27/03/2024 lúc 16:33

Truyện ngắn của THỦY VI

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

30/03

25° - 27°

Mưa

31/03

24° - 26°

Mưa

01/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground