Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 26/12/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

"Mật ngữ" làng Phú Hải

Hơn ba mươi năm trước, khi còn là sinh viên năm thứ hai, lớp chúng tôi đi điền dã về văn hóa dân gian của hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng chừng một tháng, sản phẩm có được sau đó là cuốn Văn học dân gian huyện Triệu Hải.

Một thầy cúng đang nắm giữ nhiều bí mật  về “mật ngữ” của Phú Hải - Ảnh: LĐD

Một thầy cúng đang nắm giữ nhiều bí mật về “mật ngữ” của Phú Hải - Ảnh: LĐD

Sau chuyến thực tế đó, khi trở lại trường, có mấy đứa cùng phòng thi thoảng nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ rất lạ. Đó là nhóm đi thực tế tại xã Hải Ba. Hóa ra sau một tháng ăn dầm ở dề tại làng Phú Hải, nhóm sinh viên lớp chúng tôi học, với tất cả khả năng “khai thác tư liệu” đã mò ra được một tiếng lóng mà sau một hồi giải thích mới hiểu được mang máng cách “chế tạo” tiếng lóng của dân làng. Rồi sau đó những tiếng lóng học mót được ấy, chúng lại đem xài với nhau và cười ha hả trước sự ngơ ngác của những đứa còn lại.

Hơn ba mươi năm trôi qua, câu chuyện của làng Phú Hải được nhiều người đề cập, và với tôi nhắc tới Phú Hải, ký ức lại nhắc nhớ đến thời sinh viên hoa niên và chuyến điền dã đáng nhớ. Dăm bảy lần về làng, góp nhặt mỗi lần một ít vốn liếng nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ chúng tôi đạt tới trình độ… A của dòng “mật ngữ” này. Nhiều người nghe phương ngữ Quảng Trị vốn kêu trời bởi nó gây khó khăn cho những người quen tiếng phổ thông thì ở Quảng Trị này, ngay cả những người giỏi “Quảng Trị ngữ” nhất vẫn bó tay nếu như tình cờ “rơi” vào một cuộc trò chuyện nào đó của dân làng Phú Hải, xã Hải Ba, huyện Hải Lăng.

Phú Hải nổi tiếng bởi ba nghề truyền thống đều liên quan đến việc hiếu hỉ: nghề làm hàng mã, nghề bát âm cổ nhạc (chuyên phục vụ trống kèn tại các đám ma, đám giỗ...) và đặc biệt nhất là nghề… thầy cúng. Cả ba nghề này vốn liên quan đến nhau khá mật thiết. Những năm sau 1975, trước làn sóng bài trừ mê tín dị đoan, “nghề làng” bị mai một, dân làng đi tha phương, nhưng chừng hơn mươi năm trở lại đây, “phú quý sinh lễ nghĩa”, nghề truyền thống của làng phục hồi và có phần hưng thịnh hơn xưa. Cũng chính từ cái nghề thầy cúng - thầy pháp này mà người Phú Hải có một thứ ngôn ngữ riêng, chỉ những người làng hiểu, cha truyền cho con, ông truyền cho cháu, một thứ “mật ngữ” cực kỳ lợi hại.

Làng Phú Hải là một thôn nhỏ của xã Hải Ba, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Do diện tích của làng nhỏ hẹp, chủ yếu là ruộng cát, nên dân không sống bằng nghề làm ruộng mà chủ yếu nhờ vào nghề làm hàng mã, thầy cúng và đánh bát âm cổ nhạc cho các đám hiếu. Với sự “lên ngôi” của nghề này trong thời gian qua, đời sống của dân làng Phú Hải được coi là khá giả. Có lẽ đặc thù này đã khiến người dân càng “bảo mật” nghề làng bằng những “mật ngữ”.  

Ví như đang ngồi với nhau, một nhóm bạn người làng Phú Hải muốn đi trước thì họ sẽ nói một từ “tỏi”, và sau đó chỉ là người Phú Hải mới biết “tỏi” nghĩa là đi, rời khỏi. Vì sao cái động từ “đi” lại biến thành “tỏi”? Hóa ra công thức của nó là thế này: tỏi là tên một loại gia vị cùng với… hành (hành, tỏi). Mà hành, trong chữ Hán nghĩa là đi, có vậy thôi, nhưng mà “tỏi” chỉ là một từ đơn giản, còn nói cả một câu chuyện bằng thứ mật ngữ được diễn dịch đến vài ba lần thì không dễ dàng chút nào!

Sách xưa về nghề cúng bái - Ảnh: L.Đ.D

Sách xưa về nghề cúng bái - Ảnh: L.Đ.D

Sau chuyến điền dã thờ sinh viên, tôi có trở lại làng vài lần, tầm mươi năm trước, tôi tìm đến nhà cụ Trần Đức Tranh, một thầy cúng nổi tiếng ở làng, nay đã hơn 80 tuổi. Vừa đặt vấn đề tìm hiểu về “mật ngữ” của làng, cụ Tranh nói ngay: “Các chú muốn tìm hiểu chi cũng được nhưng cái thứ tiếng nói này là bí mật của làng, tui không thể tiết lộ được. Nếu muốn cho các chú biết thì phải hỏi ý kiến hội đồng kỳ mục của làng, các trưởng lão có cho mới được nói. Mà chắc chắn không thể cho vì đây là bí mật, mấy chú tìm hiểu viết lên báo thì... cả thế giới biết, còn chi là bí mật của làng nữa, phải không?”.

Nếu lý giải về thứ ngôn ngữ là bí mật của làng như cụ Tranh thì quá đúng, nhưng đã đội mưa đội gió về làng, không lẽ không có được vài bí mật để kể hầu bạn đọc? Vậy thì chúng tôi đành dùng chiến thuật “trước ở ngoài sân, sau lần vô bếp”, thế nào cụ Tranh cũng hứng khởi mà tiết lộ vài câu thông dụng, ít ra để qua đó hiểu được cái cách “chế tạo” mật ngữ của làng.

Vào bất cứ nhà nào ở Phú Hải làm nghề thầy cúng cũng có thể thấy bàn thờ Thái Thượng Lão Quân cưỡi con trâu xanh trang trọng giữa nhà. Ôm một chồng sách xưa in chữ Nho li ti chi chít, ông Tranh bảo, bảy tám chục năm trước, đang để chỏm thì bố ông đã rước thầy đồ về dạy chữ Hán cho mấy anh em, học chữ Hán cũng chính là để sau này lớn lên mới đọc được những cuốn sách cúng, lịch vạn sự, vạn niên… in bằng chữ Hán được truyền từ mấy đời, với những kinh sách ấy, có thể yên tâm đi kiếm cơm thiên hạ. Tuy nhiên để trở thành một thầy cúng - thầy pháp tinh thông các nghi lễ kinh sách chữ Hán không phải ai cũng làm được. Và có lẽ chính vì cái nghề này cũng cần một chút “u u minh minh” mới thêm phần bí ẩn, tò mò nên chi tự thuở xa xưa, người làng đã sáng chế ra “mật ngữ” của riêng làng, người ngoài không thể biết được. Một phần thứ tiếng lóng này được sáng tạo trên cơ sở chữ Hán, được biến tấu theo cách riêng của người làng. Sau một hồi hỏi han thuyết phục, cụ Tranh cũng cho chúng tôi vài câu trong những tình huống đơn giản. Ví như đang làm việc gì đó, nếu chủ nhà xuất hiện, họ sẽ thông báo cho nhau như sau: “Có chấm óc, đáo”. Đáo, trong chữ Hán là về thì có thể hiểu, nhưng “có chấm óc” thì tại sao lại gọi là chủ? Và đây là những thao tác mà chắc có là tiến sĩ Hán học cũng không thể diễn dịch nổi: Trong chữ Hán, chữ “chủ” gồm chữ vương () và dấu chấm trên chữ vương () có nghĩa là chữ “chủ”, “óc” hiểu theo nghĩa thông thường là ở trên đầu (đầu óc), có chấm óc tức là có cái chấm trên đầu - tức là chữ “chủ”. Thay vì nói “chủ nhà đang về kìa” thì người Phú Hải sẽ nói: “Có chấm óc, đáo!”.

Đó là một thứ mật ngữ trộn lẫn giữa chữ Hán và ngôn ngữ bản địa, được diễn dịch qua nhiều tầng nấc như cái từ “đi” nghĩa là “hành” và dân Phú Hải thì gọi là “tỏi” như chúng tôi vừa kể ở trên.

Nhưng ngôn ngữ đặc biệt này cũng không chỉ dựa vào sự diễn dịch, đánh tráo các từ Hán - Việt, có nhiều từ rất lạ mà không thể tìm được mối liên hệ nào với phương ngữ chung của vùng. Ví như “nấu cơm” thì tiếng Phú Hải gọi là “chử náp”, uống nước thì gọi là “cửa thổi”, nói về người sắp chết thì bảo là “thượng gần uốn” (anh ta gần chết).

Anh - em thì được gọi là “sư - bo”, vợ  là “nghéo”, chồng “phu”, ăn “khẩu”, uống “cựa”, đi “tỏi”, về “hồi”, con “sơ”, quán “xá”, ngủ “khư”, mưa “vọ”. Người già trong làng không kể đàn ông, đàn bà, được con cháu kính trọng gọi chung một từ là “viu”. Ví dụ “viu khẩu náp” là mời bố mẹ hay ông bà ăn cơm, hoặc “viu cựa thổi” là mời bố mẹ hay ông bà uống nước. Ngày mai bố đi làm được gọi “viu tỏi vi”, con ơi dậy đi học là “sơ đi hược”. Anh em mời nhau uống nước gọi là “cựa thổi bo”. Hay hai người muốn mời nhau ra quán uống nước, hoặc nhậu nhẹt gọi là “bo sư tỏi cựa cây” và mời nhau ra quán  ăn gọi là “bo sư tỏi khẩu xá”.

Dễ nhận ra trong tiếng lóng của Phú Hải có cài vào rất nhiều từ Hán, tuy nhiên nó được quy định cụ thể từng từ chứ không có công thức nào áp vào để giải mã, điều đó khiến chưa một ai tìm hiểu mật ngữ của Phú Hải lại có thể giao tiếp được trọn vẹn với người Phú Hải bằng thứ ngôn ngữ đặc biệt này.

Điều thú vị chào đón khi bước qua cánh cổng làng Phú Hải. - Ảnh: L.Đ.D

Điều thú vị chào đón khi bước qua cánh cổng làng Phú Hải. - Ảnh: L.Đ.D

Không xa nhà thầy cúng Trần Đức Tranh là nhà thầy cúng Hồ Duy Chẩn. Khi chúng tôi đến nhà, anh Chẩn đang đi cúng xa, vợ anh, chị Nguyễn Thị Hằng, vốn là dân của làng Liên Chiểu ở cạnh làng Phú  Hải, tuy đã về làm dâu làng Phú Hải gần 30 năm nhưng khi nghe chúng tôi tìm hiểu về thứ ngôn ngữ kỳ lạ này chị Hằng nói rất thật lòng: Thì tui cũng nghe cha con nhà này nói chuyện với nhau vậy chứ tui không biết nói gì, thỉnh thoảng có khách trong làng đến nhà, năm bảy người vẫn tụ tập uống trà, trò chuyện, nhưng chuyện gì thì cũng… không biết được (!).

Cụ Tranh bảo trước đây cũng có vài người về lấy chồng, lấy vợ ở làng, khi rời làng đi xứ khác sinh sống cũng mang theo một ít tiếng lóng, đôi khi trà dư tửu hậu cũng đưa ra khoe nhau như câu chuyện làm quà, nhưng chỉ vài tiếng đó không đủ để hiểu được bí mật của người Phú Hải. Tuy nhiên căn cứ vào những gì mà cụ Tranh kể cho chúng tôi, có thể thấy rằng để sáng tạo ra thứ tiếng lóng riêng biệt của làng, không chỉ dựa vào từng từ ngữ riêng biệt mà chắc chắn nếu dày công nghiên cứu sẽ có thể thấy được cái chìa khóa mà người Phú Hải dùng để “mã hóa” ngôn ngữ thành thứ biệt ngữ độc đáo của làng mình.

Một lãnh đạo của xã Hải Ba, khi nghe chúng tôi đặt vấn đề về thứ tiếng nói riêng có của dân làng Phú Hải cũng thú nhận tuy là cư dân cùng xã, đã làm tới chủ tịch xã này nhưng vốn liếng “tiếng lóng Phú Hải” của anh cũng nằm ở một số từ đếm chưa hết trên đầu ngón tay của một bàn tay, thế mới biết trình độ “bảo mật ngôn ngữ” của dân Phú Hải cao đến nhường nào. Tuy nhiên, trước hiện tượng ngôn ngữ độc đáo này, nếu bạn là người thích khám phá, hãy về và tìm hiểu, bởi một khi sự bảo mật càng cao mà mình “bật mí” được những bí mật ấy thì lại càng thú vị!.

LÊ ĐỨC DỤC

Mới nhất

Đồng cảm “Bốn mùa thương nhớ”

23/12/2024 lúc 17:07

Trong cuộc sống của con người thì sự ăn quan trọng vào bậc nhất. Cổ nhân có câu, dịch nghĩa ý rằng: Nước lấy dân làm trời, dân lấy ăn làm trời. Ăn không chỉ để sống, để tồn tại, để lao động, cống hiến mà còn là để khoái khẩu, để thưởng thức, suy ngẫm và trải nghiệm, đó là quan trọng như trải nghiệm ăn uống. Sự ăn không chỉ thỏa mãn đời sống vật dục tất yếu, bình thường và lành mạnh mà còn là văn hóa, hồn vía, là tâm tình, kỷ niệm, là da diết muôn vàn, đến nỗi một người Quảng Trị xa xứ như ký giả Nguyễn Linh Giang dường như cứ luôn mang mang tâm trạng hồi cố, hoài niệm theo Bốn mùa thương nhớ (tập tản văn, NXB Thanh Niên, 2024).

Ký ức chiến tranh trong truyện ngắn Văn Xương

23/12/2024 lúc 17:04

Văn Xương (tên thật Nguyễn Văn Bốn) không phải là một tác giả xuất hiện sớm và có thành tựu sáng tác nổi bật ở Việt Nam. Anh sinh năm 1959 và thuộc lớp những người cầm bút của thời kỳ đổi mới. Những truyện ngắn đầu tiên của anh được giới thiệu trên một số tạp chí, báo địa phương và trung ương khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã lùi xa.

Theo những bước quân hành

23/12/2024 lúc 17:00

Chủ đề người lính là một đề tài lớn, xuyên suốt trong dòng chảy văn học cách mạng Việt Nam và kéo dài đến hôm nay. Đó là một hiện thực khách quan bởi lịch sử đất nước gắn với trường kỳ kháng chiến; và khi xây dựng cuộc sống mới, thì người lính luôn là lực lượng xung kích đi đầu, đồng hành cùng nhân dân. Có thể hình dung sự vẻ vang ấy qua những tác phẩm trong tập sách Vang mãi khúc quân hành (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2024).

Nắng trên thành cổ; Người lính hát

23/12/2024 lúc 16:56

Nắng trên thành cổ Một rêu phong trên tường thành muôn năm cũMột nguyện cầu dài trong chấp chới tiếng chuông xaMột thanh xuân giữa ầm

Trăng biên giới; Có một nơi xa nào

23/12/2024 lúc 16:54

Trăng biên giới Ánh trăng là ánh đènĐêm tuần tra biên giớiBước chân không biết mỏiTrăng làm bạn thân quen Trăng lên cao dốc đứngNhìn rõ những

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

27/12

25° - 27°

Mưa

28/12

24° - 26°

Mưa

29/12

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground