Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 05/02/2025 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Chủ nhân của giếng cổ - đá thần ở Tổng Bái Trời

T

ổng Bái Trời thuộc vùng gò đồi có đất bazan ở Gio Linh tỉnh Quảng Trị. Năm 1775, trong phủ biên tạp lục, Lê Qúy Đôn đã dành những dòng viết về Tổng Bái Trời như một “Đặc khu kinh tế” của xứ đàng trong. Đến đầu thế kỷ 20, Mdelein Colani đến vùng đất này để khảo cổ. Mdelein Colani chú ý những giếng cổ xếp bằng đá và những đá thần ở đây. Ai là chủ nhân của những giếng cổ, đá thần? Mdelein Colani đã có kiến giải nhưng chưa có thuyết phục. Những năm gần đây, Lê Duy Sơn trở lại vấn đề giếng cổ với những kiến giải mới nhưng chưa rốt ráo. Vì vậy, trở lại vấn đề Mdelein Colani từng nêu là một việc cần  làm đối với giới nghiên cứu văn hóa lịch sử.

I. TỔNG BÁI TRỜI QUA THƯ TỊCH

1. Đặc khu kinh tế Tổng Bái Trời:

Để hình dung về Tổng Bái Trời vào thế kỷ 18, chúng ta hãy tham khảo những dòng tư liệu trích trong PBTL của Lê Qúy Đôn.

Danh mục làng xã do Lê Qúy Đôn ghi chép trong PBTL ghi: “Tổng Bái Trời, 20 phường: Tân An, An Hướng, Trung An, An Định, Cảnh Sơn, Long Sơn, Gia Định, An Khê, Phúc Ốc, Thương Nhậm, Phú Vinh, An Định Nha, An Phúc, Khang Xá, Nam Dương, Bình An, Phú Xuân, Khe Sông, An Lộc” (PBTL, NXB KHXH, Hà Nội – 1997, trang 82). Một nguồn lợi đáng kể ở Tổng Bái Trời là lúa, nếp. Ruộng ở đây là ruộng núi nhưng được nhiều mẫu. Đất thì màu mỡ. Một nửa là ruộng đất công, do các chúa ở thời Nguyễn Thu lợi: “Huyện minh linh, Tổng Bái Trời 25 phường, ruộng thu cộng 524 mẫu 3 sào 1 thước 4 tấc, trong đó, ruộng quan điền 262 mẫu 8 sào 10 thước 1 tấc, sai thuyền tân nhất gọi gặt, thu thóc nếp trứng, thóc nếp bột, thóc nếp sót, thóc ré trắng, thóc dự, để giống một phần, đem nộp bốn phần: đất sâu, đất khô, đất mạ, đất rừng núi khô khan; 262 mẫu 3 sào 6 thước 3 tấc, cho người lính canh, thu tiền thuế riêng, mỗi mẫu hoặc 1 quan 5 tiền hoặc 1 quan, hoặc 7 tiền, hoặc 5 tiền 30 đồng, hoặc 5 tiền” (sđđ, trang 130). Rõ ràng ruộng ở Tổng Bái Trời nhiều và hết nửa thuộc quyền sở hữu Nhà nước đàng trong. “Tổng Bá Trời 25 phường, ruộng núi vườn rừng nhiều hơn các nơi khác, có ruộng núi 524 mẫu 3 sào, một nửa phải nộp thóc thị túc” (sđđ, trang 322).

Ngoài lúa, gạo ở Tổng Bái Trời còn có những loại cây như “cây công nghiệp xuất khẩu” rất thích hợp bởi vùng đất đỏ bazan màu mỡ này. Đấy cũng là nguồn thu không kém gì lúa, vì vậy các chúa nguyễn đã tổ chức sản xuất, kinh doanh những loại cây này như kiểu “nông trường quốc doanh” hiện nay thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng khá, gồm trong nước và ngoài nước: “Hồ tiêu sản ở các phường và xã Mai Xá Tổng Bá Trời huyện Minh Linh, mọc đầy rừng, leo vào các cây mà mọc, tháng 9 có hoa, tháng 11 có quả, tháng 5 thì hái, tháng 6 thì thu xong. Khi mới trồng thì ngắt lấy bông thứ nhất do nhánh chính của cây hồ tiêu đâm thẳng ra, đào lỗ dưới gốc cây sâu 3 thước rồi cấy xuống, che giữ nắng gió, vun bồi đất tốt, 5 năm sau thì có quả. Xưa Đoan quận công từng sai người y theo gió mùa mưa chở về cùng với vây cá, yến sào, để đổi cho khách buôn lấy hóa, bèn làm thành lệ” (sđđ, trang 322).

Đặc biệt Tổng Bái Trời góp phần làm phát triển cảng Thanh Hà ở Phú Xuân với mặt hồ tiêu. Lại thêm các chúa Nguyễn đã chủ trương bao tiêu sản phẩm nên Tổng Bái Trời còn có nhân công lấy trong quân đội của chúa Nguyễn nữa. Phủ biên tạp lục chép: “Họ Nguyễn cứ hàng năm vào thượng tuần tháng 5 quan tiền thì sai đội trưởng thuyền Tân nhất cùng tinh binh ra địa phương hạ lệnh cho dân, tùy vườn nhiều ít mà chia bao, họp số định giá mua lấy, mỗi gánh hồ tiêu thì trả 5 quan tiền, chở về phố Thanh Hà, bán cho khách tàu, không cho dân địa phương bán riêng. Dân phường thì có lệ phải cống hồ tiêu trắng và đen mỗi thứ một bao, mỗi bao 100 cân” (sđđ 322).

Ngoài hồ tiêu còn có cau, trầu, dầu sơn, dầu lai. “Thời họ Nguyễn trước, hồ tiêu cứ cho 100 cân làm một tạ, giá 5,6 quan, Khánh bắc và khánh Macao thường buôn về Quảng Đông. Trầu không thì cứ 60 lá làm 1 tiền, 10 liền giá tiền 20 đồng, khách buôn thường buôn vào Phú Xuân  và ra Khang Lộc và Bố Chánh. Cau cũng rẻ, 10 quả to chi giá 3 đồng tiền” (sđđ 322). Về dầu sơn Lê Qúy Đôn chép tỉ mỉ: “Gỗ đà sơn ở Tổng Bái Trời ở huyện Minh linh do nhà dân trồng”, cây giống như cây phiên đào (cây ổi), lá tựa lá trầu không mà dày, có ba khía nhọn sắc, quả như quả hồng, da xù xì, có bốn hột, đầu mùa xuân thì bốc lấy hột, giã vỏ, chưng qua, rồi ép thành dầu, sắc vàng màu sáng, chuột bọ không dám ăn. Có dùng sơn để sơn đồ vật thì chưng lại như cao, cho trần hoàng vào (tàu Trung Quốc chở sang, chất mềm sắc màu); cho ngân châu vào thì thành sắc son, trộn với tre non và giã thành cao, lấy giẻ lưới rách nhào lẫn vào, dùng để xảm lỗ thuyền rò thì rắn như đá, trùng không thể đục được” (sđđ 321). Chúa Nguyễn cũng tổ chức hai đội nhân công chuyên lo sản xuất dầu sơn, miễn sưu dịch, tiền sai dư, cước mễ. “Họ Nguyễn trước đặt hai đội dầu sơn gồm 60 người, lấy người ở xã huyện sung vào, miễn các tiền sai dư, cước mễ và sưu dịch, cho nộp thay bằng 256 lường 4 bát 7 phân. Cái lường giống như cái thưng và hơi cao, một lường cho trừ 7 tiền, giá tiền thì một lường ba quan” (sđđ trang 321).

Và tư liệu sau đây cho thấy đường giao thông ở Tổng Bái Trời cũng thuận lợi vì có nhiều đường đến vùng này,  chưa kể quốc lộ xưa cũng có đường rẽ qua đó: “Tự bến ngã ba Minh Lương sang đó, qua các xã Bình Xã, Cao Xá, Lễ Môn, vượt ngang gò đất ngang qua phường Lịch – Tân xã Hương – Đình, tục gọi chợ cầu. Bên Hữu có đường đi đến Tổng Bái Trời, độ một canh rưỡi, tổng ấy 20 phường, có ruộng vườn màu mỡ, thóc lúa tốt nhất xứ. Lại sản xuất hồ tiêu, dầu, trầu không, cao. Từ Bái Trời mà xuống Lễ Môn, cho đến mấy xã dưới nữa, thì một dải đồi dài như thanh nhân dân ở dọc theo, đất đồi đều đỏ, cây cối xanh tốt. Qua cầu xã Hà Thượng trở ra thì đồng điền thuần cát trắng, tên là xứ Bãi khao khảo, đi đến một canh rưỡi, rộng mấy trăm mẫu, không mọc cây cỏ.Từ đấy đi vào Kim Đâu, Phả Lại, đến Dinh Cát đi ra thì không đo đường ấy.

Tự Kim Đâu về bên tả, qua phường Trúc Lâm, phường quán - Chùa, chợ Mai Xá, chợ An Định, quanh ra phía sau Tổng Bái Trời, qua thôn Hoàng Xá, Thượng Xá xã Kinh Môn.

2. Về lớp cư dân đầu tiên của Tổng Bái Trời:

Đến cuối thế kỷ 18 Tổng Bái Trời cơ bản đã ổn định hành chính, sản xuất và đời sống nhân dân ổn định hơn so với các vùng khác ở Thuận Hóa. Vấn đề là các cư dân đến lập nghiệp ở Tổng Bái Trời, có tính tổ chức cộng đồng cao, là bắt đầu khi nào?.

Tra cứu danh mục làng xã ở Ô Châu cận lục Dương Văn An (viết khoảng năm 1555) thấy các làng như Kinh Môn, Lễ Môn, Hà Thượng, Thủy Ba… của huyện Minh Linh đã có tên, Như vậy, vùng đất đỏ ở xứ Cồn Tiên, Gio Linh cho đến năm 1555 có thể chưa có làng, xã, nghĩa là chưa có cộng đồng người tổ chức cao. Lớp cư dân Chàm, Việt trước 1555 chỉ khai phá vùng đồng bằng.

Có một sự kiện lịch sử quan trọng dẫn đến sự thành lập các phường trên xứ Cồn Tiên, nam sông Hồi (sông Bến Hải) khi Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa, Đại Nam thực lục tiền biên chép: “Nhâm Thân, năm thứ 15 (1572) (Lê Hồng Phúc năm 1, Minh Long Khánh 6) mùa xuân, tháng giêng, vua Lê đổi niên hiệu là Hồng Phúc.

Mùa thu, tháng 7, tướng Mạc là Lập Bảo (không rõ họ, tự xưng quận công) lấy người ở châu Bắc Bố Chánh (nay là huyện Bình Chánh) dẫn đường đem 60 binh thuyền vượt biển vào đánh cướp, đóng trại từ con đường xã Hồ Xá đến đền Thanh Tương xã Lãng Uyển. Thế giặc đang mạnh. Chúa đem quân chống giữ, đóng ở sông Ái Tử. (ĐNTLTB, NXN SH, Hà Nội, 1962, trang 35). Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã dùng mỹ nhân kế khi cử hầu thiếp của chúa là Ngô Thị Lâm, người làng Thế Lại, đến dụ lập bạo. Lập bạo thề với chúa Nguyễn Hoàng ở ven sông Ái Tử. Lập bạo trúng kế và bị chúa giết, còn quân sĩ nửa vạn bị bắt làm tù binh. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã cho số tù binh này định cư ở Cồn Tiên, vùng gò đất đỏ ở Gio Linh, lập 36 phường của Tổng Bái Ân. Sử đã chép: “Quân giặc đem nhau đầu hàng, chúa cho đất ở Cồn Tiên (Tổng Bá Ân bây giờ) đặt làm 36 phường…”. Như vậy, lớp cư dân đầu tiên, có tổ chức cao, ở Tổng Bái Trời phải sau 1572 mới có. Chính họ là những người khai khẩn đất rừng núi của xứ Cồn Tiên thành Tổng Bái Trời trù phú như đã nói ở phần II.1.

Cư dân Tổng Bái Trời cảm ơn đức chúa Tiên Nguyễn Hoàng vì chúaTiên đã tha tội cho họ sinh cơ lập nghiệp trên một vùng gò đồi màu mỡ, và họ đã tự động lập miếu thờ chúa Tiên Nguyễn Hoàng ở Tam Phường Tổng Bái Trời, Chúa Nguyễn Phúc Chu, nhân vật có lập miếu thờ Tổng Bái Trời, chúa Nguyễn Phức Chu đã khen ngợi dân và cho người chăm sóc miếu thờ. Sử chép: “Ất Hợi, năm thứ 4 (1695)…, mùa thu, tháng 8… Đặt chức từ thừa ở miếu (năm Minh Mạng thứ 4, đổi dựng chùa long phúc) phường An Định Nha thuộc huyệ Minh Linh, Quảng Trị). Buổi quốc sơ, các phủ đều dựng các miếu thờ thánh vương trước. Dân ba phường An Định Nha, An Hướng và phường Xuân thuộc Tổng Bái Ân cảm nhớ công ơn Thái Tổ dựng miếu tờ ở An Định Nha. Chúa nghe khen tốt, sai quan đem mũ và áo bào thần ngự bày ở miếu, lại đặt chức từ thừa để trông coi, cho bằng son”. Miếu thờ chúa Nguyễn Hoàng đến thời Minh đổi thành chùa Long Phúc; vì trải qua nhiều cuộc biến loạn, trong 138 năm, việc tế lễ ở miếu không còn như xưa nữa. Sử triều Nguyễn chép: “Dựng chùa Long Phúc. Chùa ở ba phường Long Định Nha, An Hướng, Phường Xuân thuộc tỉnh Quảng Trị. Buổi quốc ba phường cảm mến ơn đức thái tổ, dựng miếu để thờ. Đến nay việc đình thần việc tâu lên. Vua giao xuống bầy tôi bàn, đều cho nhân dân thờ cúng nhảm nhí không nên, xin đình, vua bèn sai đổi dựng thành chùa, cấp trước cho 100 lạng bạc, khi làm xong cho 300 quan tiền, trừ tô thuế hơn 70 ruộng đất công để dùng vào việc thờ cúng, đặt ba người tự phu” (ĐNTLCB, đệ nhị kỷ, tập VI, NXB KH, Hà Nội, 1967, trang 135).

Trong đợt khảo sát điền tháng 7 năm 1989 ở miền tây Vĩnh Linh để tìm dấu vết phủ cũ Tân An, chùa Long Phúc… chúng tôi đã may mắn được gặp cụ Nguyễn Cửu Phương (75 tuổi), người Tam Phường (An Định Nha, An Hướng, Phường Xuân) từng phụ trách tế ở chùa Long Phúc. Cụ Phương cho biết chùa Long Phúc đã bị cháy và đổ nát trong chiến tranh, không còn văn bản nào về chùa. Cụ còn nhớ thuộc lòng bài văn tế hàng năm cụ xướng trong lễ tế chúa Nguyễn Hoàng (28/8 âm lịch). Cụ đã đọc và chúng tôi ghi lại toàn bài văn tế như sau (bản phụ):

Long Phúc tự tế văn

Cung duy Hoàng đế:

- Nhạc bắc giáng thần, thiên nam khải thánh.

- Bẩm quang nhạc chi linh, đắc thiên địa chi chánh.

- Khai thác tế chi sơ thảo muội, nhân vương đức tổ, tố Đinh, Lê, Lý, Trần dĩ hữu quan; khởi nghiệp thùy tức tải cơ đồ, thánh tử thần tôn, cắng Nghiêu Thuấn Vũ Thang nhi độc thanh.

- Mạc trặc kỳ thần, uy linh hiển hách.

- Duyệt tự hành minh xuất trụ, quế lâm nhất thốn khổ, ẩn kỳ tây phong Bái chi dư nuy; việt tòng quốc lộ đa gian, Hành lãnh kỷ xuân thu, triệu tướng quân Ô Châu ch tho cảnh.

- Tư thích thu thiên, cung trần tế lễ

- Thượng kỳ giáng cách, thứ biểu vi hành.

- Hộ tam phường lai đắc bình an, cung Hoàng đế phù trì chi huệ dã

Thượng hưởng

Tạm dịch:

Kính nghĩ đức Hoàng đế

- Non bắc giáng thần, trời nam sinh thánh.

Sông núi đúc khí thiêng; đất trời trao lẽ chánh.

- Mở nền cứu xưa tăm tối, vua nhân tổ đức, trải Đinh, Lê Lý Trần đã phong quang;

- Dấy nghiệp lưu muôn thuở cơ đồ, con thánh cháu thần, suốt Nghiêu Thuấn Võ Thang riêng cường thạnh.

- Từ lúc đức thần xuất hiện, một góc nơi rừng Quế, giấu tài năng miền phong Bái xa xôi; vận qua vận nước khó khăn, bao năm chốn đèo ngang, dựng bờ cõi Ô Châu hẻo lánh.

- Nay gặp tiết thu, kính bày lễ tế.

Trước dâng Hoàng đế, sau tỏ thành tâm.

-          Giúp ba phường thảy được bình an, xin Hoàng đế ban ơn che chở vậy

Thượng hưởng

II. VỀ CHỦ NHÂN CỦA GIẾNG CỔ - ĐÁ THẦN Ở TỔNG BÁI TRỜI:

Phần I cho biết lịch sử của Tổng Bái Trời với cộng đồng người việt có tổ chức cao và tính đến nay cũng được 425 năm; là chổ dựa cho giả thuyết mới về giếng cổ - đá thần ở Gio Linh, Quảng Trị.

1. Tổng quan về cá giả thiết cũ về giếng cổ - đá thần:

Các giếng cổ - đá thần còn tìm thấy ở Gio An, Gio Linh, Quảng Trị, phần lớn thuộc Tổng Bái Trời xưa, là những di tích văn hóa lịch sử độc đáo được giới nghiên cứu lịch sử quan tâm hơn nửa thế kỷ qua. Tuy nhiên, vấn đề chủ nhân của giếng cổ - đá thần là một dấu hỏi lớn, vẫn còn phải tiếp tục thảo luận.

Các giả thiết đã công bố về chủ nhân của giếng nước - đá thần có thể xếp thành hai khuynh hướng:

Giả thiết cho rằng chủ nhân của giếng nước-đá thần là người Anhđônêdiêng, vào thời tiền sử, từng phiêu bạt đến vùng Gio Linh, Quảng Trị để sinh cơ lập nghiệp, do nhà khảo cổMadelein Colani đề xướng trong “Emploi de la pierre en de temp rescules Annam – Indonesia - Assam”. Cơ sở cảu giả thiết này là sự tương đồng về cấu tạo, chức năng giữa giếng cổ Gio Linh với các giếng ở Miền Nam. Theo madelein colani thì chỉ có “những nhà hàng hải kiêm thương nhân có đầu óc thực dụng Anhđonêdieng” mới có đủ thực hiện công trình quy mô như các giếng cổ Gio Linh.

Giả thiết cho rằng chủ nhân giếng cổ Gio An (Gio Linh) là người Champa do tác giả Lê Duy Sương đề xướng trong bài viết “Các giếng nước cổ ở Gio An”. Cơ sở của giả thiết này, là giếng cổ Gio An nằm gần các vùng di tích Champa trên đất Quảng Trị. Theo Lê Duy Sơn di tích giếng cổ nằm trong “dòng chảy văn hóa Champa” nên chủ nhân giếng cổ là người Champa có khả năng cao nhất.

Ngoài ra, Madelein colani khi đang nghiên cứu các viên đá làm mốc, các viên đá bùa… gọi chung là đá thần thì thấy những di tích này có liên quan đến giếng cổ và nhà nghiên cứu này cũng cho chủ nhân của những viên đá ấy thuộc “dân tộc bán khai”. Tạm gọi “giếng cổ – đá thành”.

2. Giả thiết mới:

Cư dân Tổng Bái Trời thế kỷ 16 là chủ nhân của giếng cổ - đá thần.

Nghiên cứu các công trình của Madelein Colani, Lê Duy Sơn thấy rằng các tác giả khảo tả chi tiết các giếng cổ - đá thần. Có giếng chiếm mặt bằng khá rộng. Thường khi đào giếng, người ta đào hoặc khoan xuống lòng đất, khi gặp mạch nước ngang là có nước. Mặt bằng của giếng chỉ chiếm vài mét vuông. Còn giếng cổ Gio Linh có quy mô hơn hẳn và khác những giếng xưa ở các làng đồng bằng. Vì thế chúng tôi thấy cần nghiên cứu quá trình  tạo tác công trình giếng cổ Gio Linh.

Sau nhiều lần khảo thực ở Gio An, chúng tôi thấy giếng cổ ở đây xuất hiện hoàn toàn khác sự xuất hiện các giếng cổ ở đồng bằng; cụ thể phần lớn những giếng kéo dài, uốn lượn theo địa hình là dấu vết của những khe, suối cũ. Trong 20 phường của tổng bái trời có phường tên khe sông đủ nói lên vùng Gio Linh. Theo chúng tôi thì những mạch nước ngầm hiện nay ở giếng cổ là những dòng nước lộ thiên của khe, suối, sông con ngày xưa. Do vùng đất đỏ bazan màu mỡ, địa hình gò đồi lồi lõm, và rải rác có những tảng đá tổ ong, to có nhốc, nằm ngổn ngang trên mặt đất vài mét. Đất thịt lại phủ lên, chưa kể khi người làm vườn cứ tìm cách mở rộng diện tích vườn bằng cách san lấp những chỗ trũng như khe suối… Kết quả dòng lộ thiên bây giờ trở thành mạch nước ngầm cung cấp nước cho giếng cổ.

Trên một con suối bị lấp, có những đoạn được chừa lại, kè đá thì phun ra ở đá phía cao; đó là giếng cổ ở Gio An. Với giả thiết này, phần nào giải thích được tính quy mô và độc đáo ở giếng cổ Gio Linh. Hiện tượng này có thể lặp lại ở vùng kinh tế mới Xuân Lộc (Gia Ray, Gia Lào…) Đồng Nai, vùng kinh tế mới ở Sông Bé. Ở những vùng đất này có đất đỏ bazan, cũng có đá tổ ông nằm rải rác, lẫn với đất thịt, và ta cũng đào, xeo, nạy, vần…những viên đá, tảng đá ấy, xô xuống khe, suối nhằm mở rộng mặt bằng canh tác. Nước khe trở thành mạch nước ngầm và những đoạn của khe, suối cũ, người ta chừa lại để lấy nước; đó là giếng mội.

Với quy mô một vùng đồi ở Gio Linh, có hệ thống trên 60 giếng cổ xếp bằng đá…cho thấy chủ nhân của giếng cổ phải là những tộc người có trình độ tổ chức cao. Nếu chủ nhân là người Anhđônediêng từng lập nghiệp ở đây, tạo ra những giếng có quy mô lớn và đọc đáo ấy thì họ phải để lại một tầng văn hóa tương đương. Có thể họ đã bị tiêu diệt hoặc suy thoái thì phương thức tạo giếng ít nhiều phải được kế thừa ở một vùng đất khác, vùng rừng đất núi Quảng Trị chẳng hạn. Nhưng các dân tộc mền núi nước ta cho đến nay. Nước đơn giản làm bằng ống tre mà thội! Chính điều này đã minh chứng cho giả thuyết Madelein Colani. Vì lẽ đó mới dẫn đến giả thiết của người Champa của Lê Duy Sơn. Chính Madelein Colani đã tìm thấy một “gạch nối văn hóa” ở vùng này với giếng cổ đá thần. Đá thần có đá làm mốc địa giới, đá dùng để tránh yểm cho đương cơ, đá có ghi bùa để yểm tà ma, hung khí. Đây là cách phân định địa giới bằng cột mốc được đúc bằng bê tông cốt thép, chứ ngày xưa làm bằng đá. Thường người ta hay thỉnh ông táo, bát hương… đến ngã ba đường cái, nơi có cột móc…rồi thắp hương làm cho cột móc linh thiêng. Cột móc trở thành “ông mốc”, “thần mốc”. Do ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, người Việt nói riêng và người châu Á nói chung đều học thuật phong thủy của Trung Quốc xưa. Trong phép phong thủy có “lập thạch” để tránh họa. Ở cột đá, có vẻ bùa là đá trấn, đá bùa. Công cụ này nhằm trấn yểm năm xây nhà, trấn xuyên giếng không có phương khô có lợi…Như thế, đá thần có bùa thường có chủ nhân là người Tàu, người Việt. Vậy chủ nhân của giếng cổ - đá thần là người Anhdonedieng rất bấp bênh.

Bây giờ hãy xét giả thiết của chủ nhân Champa của giếng cổ - đá thần. Giả thiết này dựa vào “dòng chảy văn hóa Champa” trên đất Quảng Trị. Vùng Quảng Trị, còn rải rác nền móng cũ của tháp chàm, tượng đá tạc thần Visnu, Siva…thế nhưng ở Gio Linh, trên những làng xã, phường…không có gạch Champa, không có một di chứng nào gọi là nằm “trong dòng chảy văn hóa Champa”. Và nếu cũng có thể hài hòa với giếng cổ, đá thần ở vùng này. Do sự bấp bênh của hai giả thuyết Anhđônediêng, Champa nói trên, chúng tôi xin đưa ra giả thuyết mới: Chủ nhân của giếng cổ - đá thần nói riêng và di tích văn hóa lịch sử toàn vùng gò đồi đất đỏ Gio Linh, tức Tổng Bái trời xưa, là lớp cư dân người Việt đến đây lập nghiệp vào năm 1572. Họ là những tù binh Mạc, được chúa Tiên Nguyễn Hoàng đưa đến đây khai thác vùng đất đỏ bazan màu mỡ của xứ Cồn Tiên, Gio Linh. Họ và con cháu họ đã được tổ chức thành 36 phường, sau đó gom lại còn 25 phường… canh tác trên đất công và đất tư hữu. Do có nguồn gốc quân đội, lớp dân cư đầu tiên này đã cải tạo địa hình gò đồi thành ruộng núi, vườn rừng nhờ xử lý những viên đá, tảng đá tổ ong nằm lẫn trong đất thịt (đá mồ côi). Họ đã xếp đá để giữ đất, chống xói mòn, lấp khe, suối để mở rộng mặt bằng, chừa lại những đoạn khe, xếp đá thành giếng. Giếng dùng cho sinh hoạt hàng ngày nhưng cũng cần để sản xuất như tưới tiêu, cung cấp nước cho ruộng núi, hoặc dùng cho việc sản xuất dầu sơn, dầu lai…Họ lập chùa thờ phật, thờ Thánh, thờ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Họ là chủ nhân của một vùng trù mật nổi tiếng. Nhân dân Thuận Hóa nhắc đến Tam Phường, Bát Phường của Tổng Bái Trời như một vùng trù phú, nơi cung cấp những sản vật độc đáo và chúa Nguyễn Đàng Trong thu lợi lớn ở vùng này.

Do được tổ chức bởi một nhà nước mạnh, cư dân lại là cựu chiến binh nên ở Tổng Bái Trời có biểu hiện tổ chức xã hội cao. Những viên đá làm mốc để phân địa giới, những viên đá trấn, đá bùa…phản ánh tín ngưỡng của người Việt như những vùng khác của nước ta… Tóm lại, nếu như chủ nhân là người Việt thì giếng cổ - đá thần cùng với ruộng lúa, vườn rừng, chùa, miếu, đình làm thành một thể thống nhất, hài hòa của tầng văn hóa đặc Việt, thăng trầm trên dưới 425 năm.

Chúng tôi mạo muội đưa ra giả thuyết mới. Rất mong các nhà nghiên cứu lịch sử, nhất là các nhà khảo cổ học quan tâm vấn đề này. Ai là chủ nhân của giếng cổ - đá thần là câu hỏi đã được trả lời. Nhưng chỉ dừng lại ở mức giả thuyết. Vấn đề chỉ còn cách định tuổi của các di vật bằng các phương pháp của khảo cổ học (đồng vị C14, bào tử phấn hoa…) mới khẳng định được chủ nhân là người Anhđônêdiêng, người Champa hay người Việt mà thôi.

T.V.Đ

Trần Viết Điền
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 39 tháng 12/1997

Mới nhất

Thành phố Đông Hà sôi nổi giải cờ tướng, đẩy gậy và các trò chơi dân gian mừng Đảng, mừng xuân Ất Tỵ 2025

6 Giờ trước

TCCVO - Sáng 5/2/2025, thành phố Đông Hà tổ chức giải cờ tướng, đẩy gậy và các trò chơi dân gian mừng Đảng, mừng Xuân Ất Tỵ 2025. Giải đấu thu hút gần 150 vận động viên (VĐV) nam, nữ đến từ 9 phường trên địa bàn thành phố.

Chương trình nghệ thuật đặc biệt mừng Đảng, mừng Xuân Ất Tỵ 2025

9 Giờ trước

TCCVO - Tối ngày 28/01/2025 (29 tháng Chạp), tại Quảng trường Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh Quảng Trị, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức chương trình nghệ thuật đặc biệt mừng Đảng, mừng Xuân Ất Tỵ 2025 với chủ đề “Khát vọng vươn mình”. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hoàng Nam cùng đông đảo người dân địa phương đến dự.

Thành lập Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Quảng Trị

04/02/2025 lúc 08:35

Sáng ngày 3/2, Tỉnh ủy Quảng Trị tổ chức hội nghị công bố quyết định thành lập Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy.

Ngày xuân về Gio Mỹ xem lễ hội cướp cù

02/02/2025 lúc 09:50

TCCVO - Ngày 1/2/2025 (mồng 4 Tết), tại làng An Mỹ, xã Gio Mỹ, huyện Gio Linh (Quảng Trị) đã diễn ra lễ

Ban Chính sách với sứ mệnh kết nối thiêng liêng (Kỳ 2)

01/02/2025 lúc 11:01

Ban Chính sách, Phòng Chính Trị, Bộ Chỉ huy Quân sự (CHQS) tỉnh Quảng Trị được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, không chỉ hỗ trợ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ mà còn thực hiện các chế độ chính sách đối với người có công với cách mạng...

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

06/02

25° - 27°

Mưa

07/02

24° - 26°

Mưa

08/02

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground