Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 26/12/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Làng Đông Vu có phải là làng Đông Lai?

L

àng Đông Vu của Quảng Trị ngày xưa, có phải là làng Đông Lai bây giờ không? Nghe tôi hỏi vậy, anh Lương An - nhà thơ, nhà văn và cũng là nhà sử, bèn nói ngay: “Làng Đông Vu trước kia, chính là làng Đông Lai ngày nay của ông, chứ còn làng nào lọt được vào đó nữa…!” Biết vậy, nhưng cũng có điều phải đắn đo thêm. Chỉ trích vài câu trong hai gia phả, viết bằng chữ Hán từ thời xưa mà tôi còn lưu, cũng đã có vấn đề cần được lý giải.

- Làng Đông Lai đã có từ năm 1483, sao đến năm 1553, là sau 70 năm, tác giả Dương Văn An vẫn chưa ghi vào sách Ô Châu, cận lục cùng 65 làng xã cổ thời đó! Về năm lập làng, cụ Mai Khắc Kiệm chép rõ bằng chữ Hán từ năm Mậu Tý thế này: “Chánh thượng đài Tiền Khai khẩn ông Hạc, tự Mai Đình Hạc, phong cương Đại Cao Tôn Thần. Sinh vu Giáp Thân niên tại Nghệ An thừa tuyên thành, thí trúng sinh đồ Thuận Hóa xứ, khai khẩn kiến lập xã hiệu vu Quý Mão niên gian. Trú thế bát thập nhất tuế. Tốt vu Giáp Thìn niên, tam nguyệt, thập tứ nhật. Bổn xã thiết miếu phụng tự”. Như vậy gia phả chẳng những có ghi rõ sinh năm Giáp Thân, mất năm Giáp Thìn, mà còn lại ghi cụ thể cả tháng, ngày và mấy vào giờ Thìn nữa. Nhờ có hai chữ Thừa tuyên, hai chữ Quý Mão mà xác định được năm lập làng là năm 1483, niên hiệu Hồng Đức thứ 14, triều đại Lê Thánh Tông (theo những luận cứ khoa học đã lý giải trong bài báo “Làng Đông Lai được hình thành từ lúc nào”, đã đăng trong tạp chí Văn hóa Quảng Trị, trang 5, số 10 năm 1993).

- Điều còn đắn đo nữa là từ năm 1758, cụ Vĩnh Thừa đã viết 3 chữ Đông Lai xã trong gia phả họ Mai làng Đông Lai, sau đến năm 1776, thời cụ Lê Quý Đôn đang giữ chức Hiệp chấn, Tham tán quân cơ ở Thuận Hóa, mà không thấy cụ ghi hai chữ Đông Lai vào cuốn Phủ biên tạp lục! Gia phả chép rõ rằng: “ Cảnh hưng thập cửu niên, lục nguyệt, thập ngũ nhật. Triệu Phong phủ, Đăng Xương huyện, Đông Lai xã huyền tôn Vĩnh Thừa, biên Mai phái, mục lục tôn đồ sự…” Như vậy, từ năm Cảnh Hưng thứ 19, tức năm Mậu Dần 1758, đã ghi làng Đông Lai, đến lúc cụ Lê Quý Đôn viết cuốn Phủ biên tạp lục là năm Bính Tuất 1776, đã sau 18 năm rồi, sao chưa ghi 2 chữ Đông Lai, mà còn ghi 2 chữ Đông Vu!

Trong mục danh số phủ huyện, tổng, xã, thôn hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, từ trang 78 đến trang 81, sách Phủ biên tạp lục ghi rõ rằng: “Xã Thuận Hóa có 2 phủ, 8 huyện, 1 châu, 882 thôn phường giáp, Phủ Thiệu Phong có 5 huyện là huyện Hương Trà, huyện Phú Vang, huyện Quảng Điền, huyện Hải Lăng, huyện Đăng Xương (huyện Minh Linh tức Vĩnh Linh, Gio Linh lúc ấy còn thuộc phủ Quảng Bình). Huyện Đông Xương có 5 tổng là An Phúc, An Cư, An Đôn và An Lạc, Tổng An Đôn có 22 xã, 8 phường và 5 giáp gồm: An Đôn, Thượng Phúc, Nhan Biều, Ái Tử, Phúc Toàn, Phú Áng, Trà Lễ, Vĩnh Phúc, Vân An, Hà Xá, Đại Áng, Trung Chỉ, Lập Thạch, Phương Lương, Phú An, Lạng Phúc, Điếu Ngao, Đông Hà, Liên Trì, Đông Vu, Thượng Đô, Ý Bích, Bạch Câu, Cây Khế, Giang Hiếu, Hà Xá, Thiết Trường Tử Chinh, Thiết Trường Hạ Phường, Sơn Trập, Sơn Bàng, An Trung, Ngu Giáp.” Điều cần lưu ý là 6 làng ghi thứ tự liền nhau là 3 làng Lăng Phúc, Điếu Ngao, Đông Hà và 3 làng Liên Trì, Đông Vu, Thượng Đô. Thấy vậy, tôi ra Đông Hà để khảo sát thực tế lại các làng đó. Tôi đi xuôi theo dòng sông Hiếu Giang, từ mút cầu chợ Đông Hà, men theo bờ Nam là làng Điếu Ngao, liền đến cánh ruộng lúa mấy chục ha của làng Đông Lai, rồi đến làng Lãng Phúc. Men theo bờ Bắc có làng An Lạc, xuống xóm Tây Trì, rồi đến làng Đông Lai. Phía sau lưng sát nách làng Đông Lai là làng Thượng Nghĩa. Nhìn lại cho kỹ, thì làng Đông Lai ở đối diện với 2 làng Điếu Ngao và Lăng Phước, cách nhau một dòng sông, khoảng cách có chỗ chưa đến 100 mét. Đứng bên này sông, ới to một tiếng, bên kia nghe rõ. Như vậy rõ ràng, 3 làng bên bờ nam sông là Lăng Phúc, Điếu Ngao và Đông Hà, tên làng vẫn y nguyên như cũ, còn 3 làng bên bờ Bắc là Liên Trì, Đông Vu và Thượng Đô thì tên làng đổi thành Tây Trì(1) Đông Lai và Thượng Nghĩa.

Đọc đi đọc lại sử sách, tôi nghĩ rằng thời đại khoa học ngày nay mà còn quan liêu, huống chi thời đại quan liêu thuở trước, tránh sao được tam sao thất bổn! Vả lại trong chuyến đi kinh kỳ từ Cam Lộ về Cửa Việt, cụ Lê Quý Đôn kể lại rằng, cụ đi từ Cam Lộ, xuống xã Đông Hà, qua cửa khẩu Đông Lai rồi sang Bến Dạ (tức ngã ba Dã Độ) để về Cửa Việt. Cửa khẩu Đông Lai mà cụ nói trên, chính là ngã ba Hói Sòng. Hói Sòng là nhánh sông nhỏ, bắt nguồn từ địa phận xã Đông Thanh, chảy qua làng Nghĩa An, băng sang cầu Phả Lại, chảy men theo các làng Kim Đâu - chợ Sòng, Phi Thừa, Thượng Độ, Đình Tổ, Đại Độ, chảy về bãi Đình, rồi chảy trở ra sông Hiếu Giang ngay tại địa phận làng Đông Lai, nên gọi là Hói Sòng và cũng gọi là khẩu Đông Lai, nhìn sang Lăng Phước, Lập Thạch và ngã ba Dã Độ. Kết hợp cả 3 yếu tố về địa hình, địa giới với sách Ô Châu cận lục và Phủ biên tạp lục, thì đúng là làng ĐÔNG VU trước kia, chính là làng ĐÔNG LAI bây giờ. Các làng Trà Lễ, Phương Lương, Phú An… có lẽ đã đổi thành Phú Lễ, Phương Gia và Lương An, còn các làng Phi Vi, Hạ Đô… của tổng An Lạc có lẽ nay đã đổi thành làng Phi Thừa và Đại Độ. Có nhiều xã và địa danh ghi trong Phủ biên tạp lục, nay không biết ở đâu, ví dụ như Đồn Hiếu Giang, Quán Nhà No (trang 108), Cồn Đình (trang 110), Nguồn Lòng (trang 218), Cửa Rễ Vào Khó Ra, Đèo Mệt Mỏi (trang 113)… là những nơi có vẻ hấp dẫn du lịch lắm. Nếu các sử gia, các nhà địa chính xác định được những làng xã và địa danh cũ nay đã thay đổi ra tên khác, thì đó sẽ là tư liệu rất quý cho các thế hệ về sau.

P.Q.S

______________________________ 

 (1) Bên bờ Nam sông Hiếu Giang có các làng Lăng Phước, Điếu Ngao, Tây Trì, Đông Hà. Còn bên bờ Bắc, từ mút cầu chợ Đông Hà đi xuống, có làng An Lạc, xóm Tây Trì và làng Đông Lai.

Phan Quốc Việt
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 4 tháng 01/1995

Mới nhất

Đồng cảm “Bốn mùa thương nhớ”

23/12/2024 lúc 17:07

Trong cuộc sống của con người thì sự ăn quan trọng vào bậc nhất. Cổ nhân có câu, dịch nghĩa ý rằng: Nước lấy dân làm trời, dân lấy ăn làm trời. Ăn không chỉ để sống, để tồn tại, để lao động, cống hiến mà còn là để khoái khẩu, để thưởng thức, suy ngẫm và trải nghiệm, đó là quan trọng như trải nghiệm ăn uống. Sự ăn không chỉ thỏa mãn đời sống vật dục tất yếu, bình thường và lành mạnh mà còn là văn hóa, hồn vía, là tâm tình, kỷ niệm, là da diết muôn vàn, đến nỗi một người Quảng Trị xa xứ như ký giả Nguyễn Linh Giang dường như cứ luôn mang mang tâm trạng hồi cố, hoài niệm theo Bốn mùa thương nhớ (tập tản văn, NXB Thanh Niên, 2024).

Ký ức chiến tranh trong truyện ngắn Văn Xương

23/12/2024 lúc 17:04

Văn Xương (tên thật Nguyễn Văn Bốn) không phải là một tác giả xuất hiện sớm và có thành tựu sáng tác nổi bật ở Việt Nam. Anh sinh năm 1959 và thuộc lớp những người cầm bút của thời kỳ đổi mới. Những truyện ngắn đầu tiên của anh được giới thiệu trên một số tạp chí, báo địa phương và trung ương khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã lùi xa.

Theo những bước quân hành

23/12/2024 lúc 17:00

Chủ đề người lính là một đề tài lớn, xuyên suốt trong dòng chảy văn học cách mạng Việt Nam và kéo dài đến hôm nay. Đó là một hiện thực khách quan bởi lịch sử đất nước gắn với trường kỳ kháng chiến; và khi xây dựng cuộc sống mới, thì người lính luôn là lực lượng xung kích đi đầu, đồng hành cùng nhân dân. Có thể hình dung sự vẻ vang ấy qua những tác phẩm trong tập sách Vang mãi khúc quân hành (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2024).

Nắng trên thành cổ; Người lính hát

23/12/2024 lúc 16:56

Nắng trên thành cổ Một rêu phong trên tường thành muôn năm cũMột nguyện cầu dài trong chấp chới tiếng chuông xaMột thanh xuân giữa ầm

Trăng biên giới; Có một nơi xa nào

23/12/2024 lúc 16:54

Trăng biên giới Ánh trăng là ánh đènĐêm tuần tra biên giớiBước chân không biết mỏiTrăng làm bạn thân quen Trăng lên cao dốc đứngNhìn rõ những

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

27/12

25° - 27°

Mưa

28/12

24° - 26°

Mưa

29/12

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground