
Tượng đài Đoàn kết liên minh chiến đấu Lào - Việt Nam tại tỉnh Attapư, vùng Nam Lào - Ảnh: PV
Đầu năm 1971, quân đội Sài Gòn được sự yểm trợ của Mỹ, mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh vào khu vực Đường 9 - Nam Lào. Chúng coi đây là cuộc hành quân có ý nghĩa quyết định, nhằm cắt đứt tuyến chi viện chiến lược của ta, đánh phá sự chi viện của miền Bắc từ gốc, phá hủy nguồn tiếp tế của hậu phương lớn cho lực lượng cách mạng toàn Đông Dương, buộc chủ lực ta phải quay về đánh du kích, rèn luyện, thử thách, nâng cao khả năng của quân đội Sài Gòn tiến tới đảm đương vai trò của quân đội Mỹ ở trên toàn chiến trường Đông Dương. Với mục đích đó, địch đã huy động lực lượng, phương tiện chiến tranh trên quy mô lớn, hòng giành lấy thắng lợi quyết định cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Để thực hiện cuộc hành quân, Mỹ - quân đội Sài Gòn đã huy động lúc cao nhất có tới 15 trung đoàn bộ binh, hai trung đoàn thiết giáp, 21 tiểu đoàn pháo binh, hơn 700 máy bay, 4 tiểu đoàn quân ngụy Lào (trên 42.000 quân), cùng nhiều phương tiện chiến tranh khác. Đây là cuộc hành quân lớn nhất, điển hình của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Trên chiến trường tỉnh Quảng Trị, việc xây dựng và phát huy sức mạnh của lực lượng vũ trang địa phương gặp nhiều khó khăn do địch dốc sức tiến hành bình định, biến nhiều vùng dân cư thành những vành đai trắng, bắn phá hủy diệt hòng tiêu diệt mầm mống lực lượng vũ trang giải phóng trong những làng xóm, thôn bản... Chiến tranh du kích và đấu tranh chính trị đánh phá bình định của địch ở đồng bằng do ta thực hiện còn rất yếu, chưa làm thay đổi được tương quan ở thôn, xã. Lực lượng tại chỗ bị hao tổn nhiều, khu vực mở ra được ít và còn thấp. Ta mới tranh chấp được 10/60 vạn dân (chủ yếu là ở khu vực giáp ranh). Ở đồng bằng địch vẫn còn mạnh hơn ta, đây là một khó khăn lớn. Thế đứng của ta ở giáp ranh đã xen kẽ được với địch nhưng chưa vững, hậu cần bảo đảm còn rất thấp do sử dụng các phương tiện thô sơ như gùi, cõng; lực lượng nhiều nhưng hiệu suất thấp. Công tác tổ chức chiến trường, làm đường cơ giới còn thấp và chậm, chưa đạt yêu cầu Bộ giao. Về lực lượng vũ trang, ba thứ quân của quân khu mất cân đối nghiêm trọng, lực lượng vũ trang, quần chúng thôn xã và bộ đội địa phương huyện bị tiêu hao nhiều.
Với quyết tâm và nhiệm vụ trên giao cho lực lượng vũ trang tỉnh phải bảo vệ bằng được tuyến chi viện Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh; sẵn sàng để đánh địch trên các hướng, các đơn vị lực lượng vũ trang Quảng Trị đã làm tốt công tác chuẩn bị: Chủ động chuẩn bị lực lượng, cơ sở vật chất; tổ chức trinh sát thực địa, chuẩn bị chiến trường, xây dựng công sự trận địa phòng ngự, luyện tập phương án. Đồng thời từng bước cơ động triển khai và bố trí lực lượng tại chỗ, lực lượng cơ động đứng chân sẵn trên các khu vực kịp thời phối hợp với bộ đội chủ lực đánh địch. Nhiệm vụ cơ bản được xác định của lực lượng vũ trang Quảng Trị là: Đánh bại thủ đoạn bình định và “Việt Nam hóa chiến tranh” của địch. Tiến công quân sự, chính trị, phá từng bước tuyến phòng ngự đồng bằng, phá phương tiện chiến tranh hậu cứ, đường giao thông của địch; đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh ở đồng bằng, thành phố; bảo vệ hành lang hậu phương, làm chủ vững chắc rừng núi, tạo thế đứng vững vùng giáp ranh, từng bước làm chủ đồng bằng; tích cực chuẩn bị mọi mặt, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực ta diệt địch, tiến tới giành thắng lợi lớn.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng và thực hiện quyết tâm của Quân khu ủy, Đảng bộ tỉnh lãnh đạo lực lượng vũ trang và Nhân dân Quảng Trị phối hợp với Mặt trận Đường 9 - Nam Lào tích cực tiến công quân sự, đấu tranh chính trị, cùng các lực lượng trên toàn mặt trận bẻ gãy từng đợt tiến công của địch, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân Lam Sơn 719. Các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị đứng chân ở vùng giáp ranh cùng với lực lượng du kích các xã tổ chức đánh địch trên các trục đường giao thông, bắn súng cối vào căn cứ địch, kết hợp với công tác diệt ác trừ gian, hạn chế ách kìm kẹp của địch, tăng cường đoàn kết quần chúng ở nông thôn đồng bằng. Bộ đội địa phương tỉnh, huyện đứng chân ở vùng giáp ranh đã cùng với du kích các xã mở đợt hoạt động ở các vùng giáp ranh và đồng bằng, thu được nhiều kết quả trong đấu tranh chính trị, binh vận; đấu tranh chính trị kết hợp với diệt ác ôn làm cho thế kìm kẹp của địch lúc này có lỏng bớt, quần chúng tin tưởng cùng đoàn kết đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Các hoạt động đấu tranh diễn ra quyết liệt ở các địa phương như huyện Triệu Hải, thị xã Quảng Trị. Lực lượng vũ trang và Nhân dân Cam Lộ tổ chức diệt ác ôn ở các thôn Mai Lộc, Thiết Tràng (Cam Chính), thôn Nghĩa An (Cam Thanh) và ra sức đẩy mạnh đấu tranh ở các khu tập trung dân của địch như Tân Tường, Hoàn Cát, An Lạc. Lực lượng vũ trang Gio Linh đẩy mạnh các hoạt động quân sự, phát động quần chúng đấu tranh làm tan rã hàng trăm phòng vệ dân sự của địch, gọi hàng hàng chục binh lính quân đội Sài Gòn; đẩy mạnh các cuộc đấu tranh tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Nguyễn Văn Thiệu, từng bước hồi phục phong trào cách mạng ở Triệu - Hải và Gio - Cam. Ở Hướng Hóa, phần lớn cán bộ, bộ đội, du kích và dân công được huy động đi làm nhiệm vụ phục vụ, phối hợp với bộ đội chủ lực của Quân khu Trị Thiên (B4) chiến đấu ở cánh Nam của Mặt trận Đường 9 - Nam Lào.
Ngay từ những ngày đầu tháng 2 năm 1971, chấp hành Chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, lực lượng vũ trang Quảng Trị trên các hướng của chiến dịch đã tích cực, chủ động phối hợp với bộ đội chủ lực tiến công địch ngay từ khi chúng đặt chân ra chiến trường Đường 9 - Quảng Trị. Trên hướng phối hợp phía Đông Đường 9, lực lượng vũ trang các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hóa do Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị chỉ huy, từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 2 năm 1971 đã phối hợp với Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 27), Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 84 pháo binh) tiến công chế áp địch ở khu vực Tân Lâm, Sa Mưu; Tiểu đoàn 3 độc lập tập kích địch ở Tây Đầu Mầu, Tiểu đoàn 15 đánh cắt giao thông từ Bồng Kho đi Rào Quán. Trong hai ngày 6 và 7 tháng 2 năm 1971, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 84 pháo binh) bắn 200 viên đạn pháo các loại vào căn cứ Đông Hà và Sở chỉ huy tiền phương Sư đoàn 1 quân đội Sài Gòn ở điểm cao 241...
Trên hướng Tây Đường 9, bao gồm các khu vực Đồng Hến, Pha Lan, Mường Phìn (Lào), Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320 bộ binh) phối hợp với Quân Giải phóng nhân dân Lào, trong hai ngày 25 và 26 tháng 1 năm 1971 đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn đặc nhiệm thuộc Binh đoàn Cơ động 33 (GM 33) ở Pha Lan. Khi bộ đội hai nước Việt - Lào nổ súng tiến công địch ở Sê Pôn (8/2/1971) - một cứ điểm xung yếu của địch ở Nam Lào, lực lượng ta và bạn Lào đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn thuộc GM30, GM33, buộc chúng phải rút chạy về Đồng Hến... Các đơn vị bộ đội địa phương cùng các lực lượng của Mặt trận B5 đánh địch ngày càng dồn dập bằng những trận pháo kích và tập kích vào các căn cứ hậu cần, các sở chỉ huy của địch ở Khe Sanh, Sa Mưu, Đông Hà, Ái Tử, Cửa Việt…, gây cho địch nhiều tổn thất. Nhờ đó, Binh đoàn 70, lực lượng nòng cốt của chiến dịch đang bố trí ở phía Nam Quân khu 4 để sẵn sàng đánh địch theo các phương án dự kiến, nhưng khi được lệnh cơ động vào khu vực địa bàn chiến dịch (cũng là lúc địch đã vượt qua biên giới ở Lao Bảo và chiếm các điểm cao) đã tổ chức hành quân kịp thời triển khai đội hình tiến hành nhiều trận đánh ác liệt với Lữ dù 3, Liên đoàn 1 Biệt động và tập kích quân địch khi chúng vừa đổ quân chiếm các điểm cao... Các hoạt động trên khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang Quảng Trị trong việc tạo thế và lực cho chiến dịch.
Ngày 28 tháng 2 năm 1971, Tiểu đoàn đặc công của Bộ cùng với Đại đội 5 (Tiểu đoàn 33) phối hợp với lực lượng du kích Triệu Hải đánh kho Ái Tử, đốt cháy 1,5 triệu lít xăng. Tiểu đoàn 7, Tiểu đoàn 8 bộ đội địa phương Quảng Trị phối hợp với Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 27) đánh địch nống ra ở khu vực Ba Lào, Tà Cơn, tiêu diệt 2 tiểu đoàn địch, diệt 30 xe tăng, xe bọc thép. Giữa tháng 3 năm 1971, bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị phối hợp với các phân đội đặc công của Đoàn 1A Quân khu 4 đánh chìm 4 tàu, tuyến đường sông từ Đông Hà đến Cửa Việt bị tắc nghẽn giao thông hoàn toàn trong 7 ngày liền. Tuyến vận tải tiếp tế đường sông của quân đội Sài Gòn do vậy cũng bị thiệt hại nặng nề. Là lực lượng chiến đấu chủ yếu của chiến trường khu vực phía Đông, các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân Quảng Trị tổ chức nhiều trận đánh mạnh vào các tuyến đường giao thông, tập kích sân bay, kho tàng, bến cảng, gây cho địch nhiều tổn thất về sinh lực và phương tiện, buộc chúng phải phân tán và tăng thêm 2 lữ đoàn quân Mỹ, 3 tiểu đoàn pháo binh để giải tỏa.
Cùng với đó, lực lượng vũ trang Quảng Trị hỗ trợ, cùng với các đơn vị chủ lực đánh trận then chốt thứ nhất từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 2 năm 1971, trận then chốt thứ 2 từ ngày 26 tháng 2 đến ngày 3 tháng 3 năm 1971 và nhất là trận then chốt quyết định (từ ngày 12 đến ngày 23 tháng 3 năm 1971) tiêu diệt tập đoàn chiến dịch chủ yếu của địch co cụm ở Bản Đông. Trong trận đánh then chốt quyết định ở Bản Đông, lực lượng vũ trang địa phương cùng các đơn vị tại chỗ của Bộ Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn đã chiến đấu đạt hiệu suất rất cao, tổ chức đánh địch từ nhiều hướng, vừa tiến công địch vừa kết hợp vận chuyển tiếp tế hậu cần, lương thực, đạn dược, hỗ trợ các Trung đoàn 64, 36, 66... bao vây, tiêu diệt, buộc địch phải tháo chạy. Bộ đội địa phương tỉnh nắm chắc địa hình, cùng các đơn vị chủ lực nhanh chóng truy kích địch.
Sau thời gian chiến đấu liên tục, cuối tháng 3 năm 1971, Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào đã giành thắng lợi hoàn toàn, đập tan cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào năm 1971 đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu, làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần thiết thực vào việc xây dựng huấn luyện và tác chiến, xây dựng khu vực phòng thủ địa phương vững chắc, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.