Một vị trí huyết mạch như thế không thể được hình thành trong ngày một ngày hai và hiện nay ta mới thấy. Vào cuối thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn dừng chân nghỉ ngơi khoảng một giờ tại chợ Phiên và hoàn toàn kinh ngạc trước lợi thế của một tụ điểm hình nan hoa bao gồm cả thuỷ lẫn bộ: “xã Cam Lộ huyện Đăng Xương ở thượng lưu sông Điếu Ngao, dưới thông với Cửa Việt, trên tiếp giáp với các làng bản nguồn Sái đất Ai Lao, đường sá của dân Man đều quy tụ về đây. Xa có các nước Vạn Tượng, phủ Trấn Ninh, châu Quy Hợp; gần có các bộ lạc Lào đều có đường thông đến đây, rất là xung yếu…”1.
Ngược lên một quá khứ xa hơn, ta có thể bắt gặp một nét hồng hoang nguyên thuỷ của nguồn Cam Lộ: “Nguồn Cảo Cảo ở địa phận huyện Vũ Xương, là nơi sinh sống của các làng thổ dân châu Sa Bôi. Đặc sản ở đây có ngà voi, ngựa, trâu, thảm hoa, trầm hương, tốc hương, bạch mộc hương, gai sợi, gấm thổ hoa trắng, vải bông trắng…”2.
Tham khảo tất cả các bút tích của làng ta thấy việc ghi chép xuất phát điểm và nguồn gốc của mình rất sơ sài. Làng hiện nay có 15 họ: Trần, Thái, Lê, Võ, Phạm, Nguyễn, Trương… Ngoài ra còn 5 họ trong đó có họ ông tổ lập làng đã tuyệt tự: Lê, Hoàng, Đỗ, Đinh, Lương. Tất cả đều biết rất mù mờ về nguồn gốc của mình, duy chỉ họ Thái có khẩu truyền rằng ngài thủy tổ là Thái Phúc (tướng Minh theo hàng Lê Lợi), qua nhiều đời thì ngài cao tổ theo Nguyễn Hoàng vào đây lập nghiệp (1558)... Những hiện tượng lạ lùng như trên đưa đến cho chúng ta những lý giải: Một làng không thể có nhiều họ tự tuyệt đến thế mà đây là chốn thị tứ, “Trai giang hồ ở đất tứ chiếng” không chịu câu thúc vào một điều gì cả, ghé chân rồi ra đi. Rồi những họ sau là người đến muộn tự thấy mình không có vị trí đặc biệt gì nên không muốn nhắc đến gốc gác. Và phải chăng do sự mơ hồ về danh phận cho nên các thế hệ tiếp theo đã nỗ lực không ngừng đưa ra nhiều giả thiết khác nhau hầu mong cắt nghĩa các đối tượng này.
Claudius Madrolle cho rằng Cam Lộ là biến âm của Khas-leu (Cà-lơ) tên một bộ tộc người “Khas” sống trên thượng nguồn sông Hiếu. Nhưng khi nhìn lại bản đồ dân tộc học ta không thấy người Khas ở đâu cả, còn Cà-lơ không phải từ tên bộ tộc mà từ nguồn gốc ngữ âm. Đó là một lời đưa đẩy chào hỏi của dân tộc ít người có nghĩa “bạn tốt”, rồi về sau chuyển sang nghĩa “dân tộc ít người”. Dù sao ta cũng cám ơn những đóng góp quý báu vào dân tộc học Việt Nam, ở những kiến giải rất độc lập và cũng đầy sáng tạo của vị học giả người Pháp này.
Cam Lộ 甘露có nghĩa là móc ngọt. Sương là những hạt nước nhỏ li ti bay lơ lửng trong không khí do gặp lạnh đọng lại thành giọt nước trên cây cỏ. Móc có vị ngọt là dự báo có điềm lành, và tên làng được giải thích theo thực tế của sông nước nơi đây - nước sông Hiếu thường hòa nước biển nhưng vị mặn không bao giờ đến được Cam Lộ. Điều may mắn đó được xem như điềm lành gặp nước phép cam lồ của nhà Phật ban cho nên tên làng được đặt theo đó.
Những dữ liệu của khảo sát thực địa hoàn toàn chứng tỏ rằng sự phát triển của làng từ đông tây, tức là tuân theo tiến trình Cam Lộ hạ, Cam Lộ thượng, Cam Lộ phường. Nếu hiểu tên làng là “Móc Ngọt” thì nó chỉ đúng với Cam Lộ Thượng (nơi này là thị trấn); còn Cam Lộ hạ (xã Cam Thành, gần ngã tư Sòng) là bộ phận xưa nhất của làng, phải đi 0,3km qua làng khác mới đến sông, mà nước ở đây lại thường mặn. Bởi vì “danh” không khớp với “thực” như thế cho nên ta cần giới thiệu một tên cũ khác của làng được ghi trong Ô Châu cận lục: Chính Lộ.
Khi nghiên cứu tên cùng cách hình thành của mấy nghìn làng xã miền Trung từ Quảng Bình cho đến Quảng Nam, người viết bài này thấy rằng chúng đã tạo nên một lớp làng riêng mang những nét rất đặc trưng phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện địa lý lẫn thời điểm lịch sử cụ thể. Trên một con đường thiên lý trải dài như một chiếc xương sống làm trục giao thông, các làng sẽ nằm phơi hai bên như những chiếc xương sườn cá, thì tên gọi được đặt ra trước hết do nhu cầu đánh dấu và phân biệt với những làng đồng loại. Chúng được gọi tên từ một đặc điểm về địa lý, một tộc người đại biểu, một vùng đặc sản, một gốc cây đầu làng, hoặc cũng có thể không là gì cả vì cỏ cây cũng hữu hạn đâu phải sống mãi với thời gian làm cho địa danh hư hóa đi: Cây Thị, Cây Khế, Cây Đa, Cây Trên, Bãi Dưới… Những tên gọi quá mộc mạc và cũng rất duy lý ấy phản ánh một nền sản xuất nông nghiệp lúa nước đang trong tình trạng tự cung tự cấp mà chỉ cần nhìn vào địa bộ của làng, những khái niệm cũ với tất cả những số liệu được miêu tả rất chi li vẫn còn nguyên vẹn bảo lưu.
Chính Lộ 正路 (nghĩa là đường cái, đường chính) chẳng phải là một tên gọi xa lạ gì với người xưa bởi trong Ô Châu cận lục có chục tên làng mang nghĩa “đường sá” nhưng đến đây đã đổi tên (nguyên nhân sẽ được nói ở sau). Trong địa bộ Gia Long (được thực hiện khoảng năm 1814) vẫn còn ghi chép tại Cam Lộ hạ là làng gốc, một khoảnh đất rộng 17,5 mẫu mang tên Cự Lộ (nghĩa là đường cái) ôm trọn đoạn đường 71 diễu qua làng. Đường 71 ngày xưa đã từng là con đường thiên lý xuyên Trường Sơn mà đoạn Sòng - Cam Lộ đóng vai nhị trùng vì đó là đoạn đường mậu dịch nối hai trung tâm buôn bán lớn trong khu vực.
Như thế đã rõ ràng: Tại bộ phận xưa của làng (Cam Lộ hạ) có đường cái trẩy qua, nơi đó có khoảnh đất mặt tiền của làng vẫn còn giữ lại tên Làng xưa cũ: Lộ; còn bộ phận chính của làng (Cam Lộ thượng) là tâm điểm của các đầu mối giao thông và hơn nữa còn là điểm chốt về hoạt động kinh tế của con đường chính ấy. Làng mang tên cũ Chính Lộ, tức là muốn mang trong mình những ưu thế về kinh tế cũng như đặc điểm của địa lý.
Tại sao tên cũ lại thay đổi? Chính Lộ ngoài nghĩa đen là “đường chính”, còn mang các nghĩa bóng khác do hiện tượng đồng âm “đã bị lộ tẩy”, “đang lên đường đi”, nghĩa sau này còn một sự việc đang còn dang dở chưa hoàn thành. Việc ghi chép và miêu tả trong các thư tịch cũ quá súc tích nhưng do chữ nho còn thể hiện được ý nghĩa, cho nên nếu tái hiện được quá khứ người ta có thể nhận dạng ra tên cũ đã đánh mất. Việc đổi tên xảy ra từ thời xa xưa quá tầm ghi lại của ký ức lẫn chữ viết, được phỏng đoán vào khoảng 1555 - 1655 khi có một học sinh trong làng thi đỗ được chép tên vào Lịch Triều Đăng Khoa Lục. Sự cách tân thường không tách rời và đoạn tuyệt với quá khứ truyền thống mà nâng nó lên một tầm cao nhận thức mới. Tên mới hay hơn tên cũ thì lại xa dần nghĩa gốc nhưng điều đó không quan trọng - nhu cầu phát triển của cuộc sống là đẹp hơn chứ không phải đúng hơn, và chính vì thế mà cái mới được chấp thuận. Tên cũ thường lui về giữ một vị trí khiêm tốn trong gia phả và các bút tích; còn trong ký ức thường bị cuốn trôi phăng trước dòng lũ bề bộn của cuộc sống thường nhật. Cũng như con người, tên “quai nôi” thường nói lên tính xấu thời nhỏ mà người ta không bao giờ muốn nhắc khi đã “thôi nôi” để thành người lớn; tên tôi hiện là Anh Dũng, Lê Huyền, Kiên Cường, Ánh Tuyết chứ không bao giờ là cu Tèo, cái Nỡm, thằng Cún, bé Đen.
Trong bảng tổng kê tên làng của Ô Châu cận lục vào giữ thế kỷ XVI, Cam Lộ được ghi bằng một tên cũ có nhiều gợi ý và cần nâng lên tầm cao tư duy: Chính Lộ. Các tác giả xưa không ghi chép nhầm đâu. Đó là tên cũ của làng.
P.V
__________
(1) Lê Quý Đôn. Phủ Biên Tạp lục - H: Khoa học xã hội, 1977, tr.108 và 206.
(2) Việc lý giải nguồn Cảo Cảo hiện nay là nguồn Cam Lộ, tôi đã nói rõ trong Tạp chí Cửa Việt số 1 (bộ cũ), 1990.