Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 26/12/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Nhân, một tấm bia đá ở Hà Trung, bàn đôi điều về chiêu đãi nhân tài của nhà Nguyễn

 

 vùng Bình Trị Thiên, có ba di tích lịch sử dược Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử quốc gia khá sớm: đó là nơi ở cũ, lăng mộ và đình khai canh một  làng ở Truồi. Điều đáng chú ý là cả ba nơi ấy cách nhau hơn 100km ở địa phận hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, nhưng đều thuộc một nhân vật lịch sử, cách đây gần ba trăm năm. Nhân vật lịch sử tiêu biểu ấy là ông Trần Đình Ân, người làng Hà Trung, huyện Gio Linh tỉnh Quảng Trị. Ông người gốc Thanh Hóa định cư ở Tân Bình theo chủ trương khai thác vùng đất Ma Linh sau khi vua Lê Thánh Tông chiến thắng Đồ Bàn 1471. Từ đó đến khi chúa Nguyễn Hoàng vào đất Đằng Trong (1558), họ Trần Đình đã có công trong việc chiêu dân lập ấp, tạo thành một dòng họ lớn có công khai thác vùng đất mới ở Ma Linh. Sau khi chúa Nguyễn Hoàng vào ở Dinh Cát, chống lực lượng nhà Mạc (do tướng Lập Bạo cầm đầu), vùng đất Tân Bình - Thuận Hóa rối ren, dân cư phiêu tán khắp nơi. Mấy năm sau, Lập Bạo bị bắt ở Ái Tử, mấy nghìn bại binh của ông bị bắt làm tù binh. Chúa Nguyễn Hoàng đưa họ lên định cư ở chân núi Cồn Tiên và giao cho người họ Trần Đình tên Trần Đình Chí (cháu đời thứ 5 họ Trần) có công khai khẩn vùng đất này từ trước. Ông Chí chia các tù binh nhà Mạc làm nhiều nhóm lập thành 8 trang trại, khai khẩn đất hoang lập làng xóm. Tối mỗi ngày họ lại hướng phía Tây nơi có đền thờ Nguyễn Hoàng (tại An Gia) để cầu nguyện hối lỗi (Do vậy, vùng đất họ cư trú lúc sơ khai, gọi là đất "Bái Trời”. Về sau hình thành tám phường cư dân gọi là “Bát phường" thuộc tổng Bái Ân (Bái Trời cũ). Từ đó về sau, Họ Trần Đình trở thành một cự tộc, sản sinh liên tục nhiều nhân tài xây dựng và mở rộng đất phía Nam Tổ quốc trong đó có Trần Đình Ân (con Trần Đình Chí) là tiêu biểu nhất. Cũng từ đó, mãi cho đến nay, nhiều người giúp dân, giúp nước kế tục nối nghiệp. Có lần cha, con, ông cháu cùng đồng triều, đồng sự như thời các chúa Nguyễn (Thế kỷ XVI, XVII, XVIII), sau có Trần Đình Túc và con là Trần Đình Phác (cuối thế kỷ XIX) đều là những vị Thượng thư có uy tín, có những điều trần về cải cách xã hội, nhưng bị vua Tự Đức bỏ qua.

Điều đặc biệt đáng lưu ý, để lại cho chúng ta nhiều suy nghĩ là khi đọc lại tấm bia đá ở Quảng Trị về Trần Đình Ân, do Nguyễn Khoa Chiêm dựng, khi nói

đến chính sách "cầu Hiền" của nhà Nguyễn, ngay những ngày đầu vào xây dựng phương Nam.

Sau đây chúng tôi xin chép lại toàn văn tấm bia đá qua ban rập khuôn trên giấy bản. Toàn văn như sau:<.........>

 

1- Phiên âm chữ Hán:

- Quốc chủ thiên túng đạo nhân ngự sắc tứ:

Tham chính chính đoán sự quan, Đông Triều hầu Trần Đình Ân từ chức quy hương ngụ thi tịnh tự:

Quốc chủ thiên túng đạo nhân ngự sắc tử:

Tham chính chính đoán sự quan, đông triều hầu từ chức quy hương, thi tịnh tự:

Tham chính quan Đông Triều hầu nãi Dư

Tằng tổ Đức Thượng vương chi câu Thần dã do

Tổ Võ Di

Hoàng thảo cập Dư lịch sĩ tứ triều quốc chính, triều cương đa sở tán trợ nhân thần chi huân duy Khanh vi tối cánh hỹ, trần hầu vi nhân, từ khiêm ôn lương, sùng đạo, hiếu thiện, thị dĩ phương quế lan tôn nhất môn chu tử. Niên tương bát thập di do vị ngãi diệc khả ngô quốc chi phúc thọ dã nải đĩ thích đạo, bảo tịnh tử thức qui hương, Dư khổ lưu tái tam di chung bất năng đoạt kỳ chí. Lâm hành từ Dư, nhân gia kỳ thành nhi xuân dục kỳ ý, đặc điền thập mẫu tòng quân thập danh dĩ vi dưỡng lão chi nhu. Khủng thử vị pho Dư tâm liêu tặng thất ngôn cận thể thi nhất thủ dĩ tận Dư ý vân nhí.

Thi vân:

Đặc thân Chí thiện tính sinh thuần,

Phụ tán ngô triều tứ thế nhân

Chính nghiệp kỷ thành từ tử thụ

Đạo tân hằng hiện khước Hồng trần

Hy hy hạc phát đồng thương hạo

Nghiễm nghiễm tiên phong diệc Hán thần

Thử khứ Quảng Bình hà sở sự

Thanh sơn, lục thủy lạc thiên luân

Chính hòa nhị thập tử niên (quý tị) nhị nhập nhất nguyệt sơ nhị nhật

Lại bộ thủ hợp Bảng - Trung Tử thư san.

2- Tạm dịch nghĩa:

Tứ công thần bia:

Quốc chủ thiên túng đạo nhân ngự sắc tặng:

Quan tham chính chánh đoan sự, tước Đông Triều hầu Trần Đình Ân, xin

từ chức về làng chúa ngự tặng thơ và lời tựa

Chúa thiên túng đạo nhân (l) ngự sắc tặng:

Quan Tham Chính, chánh đoan sự (Tước Đông Triều hầu) xin từ chức về làng, một bài thơ và lời tựa:

Quan tham chính chánh đoan sự (2) tước Đông Triều hầu đã được tằng tổ ta là Đức thượng vương nuôi dưỡng để cùng Tổ Võ (2), cùng Tổ Khảo (3) ta cùng ta đã trải qua bốn triều đại lo quốc chính, triều cương là người trọng thần có công lao lớn. Bề tôi siêng năng, duy có Khanh là hơn cả. Mừng nay, Trần hầu (4) lại là người nhún nhường êm dịu, vui đạo, thích lành cho nên lan quế thơm tho một nhà vinh hiển. Tuổi đã gần tám mươi mà chưa có dáng dấp suy hèn, chính đó cũng là phúc thọ của nước ta vậy. Nay mến đạo ưa tĩnh xin từ quan về làng, ta cố giữ lại hai ba lần nhưng cuối cùng cũng không cản được chí. Khi từ biệt ra về, ta đặc biệt lưu luyến, chân thành biếu tặng mười mẫu ruộng và mười tên lính theo hầu dùng trong những ngày dưỡng lão. Như vậy, sợ chưa thỏa lòng ta, nên tặng thêm một bài thơ  thất ngôn để trọn lòng ta vậy. Thơ rằng:

Tính khí ôn hòa giữ mực trung.

Bốn triều giúp việc biết bao công

Thành công mới chán màu thao tía

Mộ đạo nên xa chốn bụi hồng

Thương hạo bạc phơ hai mái tóc

Hán thần vui thú một tơ đồng

Chuyến này về Quảng (6) làm chi đó

Nước biếc non xanh thỏa tấm lòng

Chính Hòa năm thứ 24 (quý tị 1703) ngày 2 tháng 11.

Lại bộ thủ hợp bảng trung tử thư sang (7)

      Tấm bia đá “Tứ Công thần bia" ở cạnh ga Hà Thanh (Thuộc đất làng Hà Trung huyện Giio Linh tỉnh Quảng Trị) do chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) đề tặng Trần Đình Ân và do Lại bộ Thủ hợp Bảng Trung tử là Nguyễn Khoa Chiêm (1659 - 1736) viết khắc vào bia nguyên văn thơ và lời tựa ấy, tấm bia dựng vào năm Chính hòa thứ 24, nhằm vào năm quý tị, tháng 11  ngày mồng 2. Sau khi Trần Đình Ân được chúa cho nghỉ về làng vào năm 1703. Nhà bia hiện nay dựng ngay trước mặt nhà Trần Đình Ân lúc bấy giờ và ngay cạnh chùa Bình Trung, một ngôi chùa vốn có từ thế kỷ VIII (thuộc Chăm pa), nơi ông về tịnh độ ở đó. Sau khi Trần Đình Ân mất, (tháng giêng năm 1706), mộ ông táng cách nơi ở hơn 3km về phía Tây Nam theo nghi lễ triều đường và có 10 lính làm phu mộ trông coi. Hai di tích này cùng với đình và nhà thờ làng ở Truồi được Nhà nước xếp hạng cùng lúc làm nơi di tích Trần Đình Ân, người có công đầu trong thời chúa Nguyễn Phúc Chu, người khai canh nhiều làng hiện nay ở Bình Trị Thiên. Những làng trên đều do công họ Trần Đình Ân chiêu dân lập ấp từ đầu vào thế kỷ XVII, XVIII nên được những làng này thờ làm vị khai canh. Sau Trần Đình Chí, Trần Đình Ân, một loạt con cháu nối tiếp cha ông đảm nhiệm liên tục nhiều chức vụ đầu triều Đằng Trong từ những thế kỷ XVII, XVIII, XIX, XX như: Trần Đình Khánh, Trần Đình Hỷ, Trần Đình Lang, Trần Đình Thận, Trần Đình Hiến…. cho đến triều Tự Đức và Duy Tân có hai cha con ông Trần Đình Túc và Trần Đình Phác để lại nhiều công tích. Nét đặc biệt, người dòng họ Trần Đình đều thay nhau khai đất lập làng xã ở Bình Trị Thiên, được các Chúa và vua nhà Nguyễn suy tôn làm tấm gương sáng trong sự nghiệp mở rộng đất nước. Vài ví dụ: Vùng rộng lớn ở Cồn Tiên do Trần Đình Chí khai phá vào thế kỷ XVI; vùng Hà Trung, Hà Trữ (Phú Lộc ngày nay), với đất rộng mãi đến cửa Tư Dung do ông Trần Đình Ân, vâng lệnh Chúa khai phá lập nhiều làng xóm, mở rộng cửa ngõ cho đô thành Huế từ cuối thế kỷ XVI, mấy đời sau người cháu bốn đời của ông là Trần Đình Túc lại tiếp tục lập làng mạc thêm ở vùng này được vua Tự Đức hết sức biểu dương và phong cấp đến chức Hiệp biện Đại học sĩ, tước Lại An tử. Trần Đình Túc về sau trở thành nhà ngoại giao, có nhiều đề nghị cải cách kinh tế xã hội như mở cửa thông thương, đón gió muôn phương vào đất nước mới đưa đất nước tiến kịp với thời kỳ mới hiện nay. Những đề nghị của ông đều bị nhà vua bỏ qua, dù ông đã ghi chép lại nhiều ý lớn và những vần thơ trong mười chín tập “Tiên sơn Chủ nhân toàn tập” để lại đến ngày nay. Về sau ông xin từ chức về Truồi sống (nơi đất ông khai phá cũ), hai ba lần nhà vua vơi ra, cuối cùng mới được nghỉ nhưng ông trả lại bổng lộc, ở ẩn cho đến cuối đời. Trong thời chúa Phúc Hoát, cháu nội Trần Đình Ân là Trần Đình Hỷ, được chúa điều về làm cai bạ Chính Dinh (Tỉnh tưởng) lo việc xây dựng Đô thành Phú Xuân 1739. Đô Thành với hàng trăm dinh thự “Thực là một nơi đô hội lớn văn vật thanh dung, lừng lẫy đời trước chưa hề có” (8). Do vậy Trần Đình Hỷ được thăng Thượng thư Hộ bộ kiêm Binh bộ. Con trai ông lại là một nhà nghiên cứu thiên văn, thí nghiệm nhiều máy nước, nổi tiếng lúc bấy giờ được nhiều người Hà Lan, Tây Ban Nha hết sức khâm phục. Di tích xa xưa đó ở ngay trước mặt Đô Thành sát bờ Bắc sông Hương. Như vậy, những công trình đào sông, khai phá mở mang làng xã xây dựng Đô Thành, phát minh máy móc… của dòng họ Trần Đình ở Huế và Bình TrịThiên xứng đáng được tôn vinh và nghiên cứu. Dòng họ như vậy, nhất định góp vào truyền thống văn hóa Việt Nam những nét sáng đượm đà màu sắc dân tộc Việt Nam và Bình Trị Thiên.

3- Qua tấm bia, chúng ta còn thấy nét đẹp về chính sách “Cầu hiền đãi sĩ” có từ buổi đầu của xứ Đàng Trong. Để hiểu ý nghĩa của nó chúng ta cần thấy sự bức bách của xứ Đàng Trong lúc đầu. Nguyễn Hoàng vào Nam năm 1558, cũng vẫn ở thế bất đắc dĩ. Vùng đất Tân Bình - Thuận Hóa đang bị nhà Mạc chiếm cứ, đất đai khô cằn, dân cư nghèo đói, chiến tranh liên miên. Muốn "vạn đại dung thân" ở mảnh đất “Hoành sơn nhất đái” không có cách nào khác là thu nạp nhân tài, mở mang đất đai với chính sách rộng mở thực sự. Chính nhờ vậy, một loạt người tài ở phía Bắc như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến, Trần Đình Chí, Trần Đình Ân... đi theo giúp rập vừa mở mang văn hóa vừa xây dựng Đàng Trong lại vừa chiến thắng họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Văn bia đã cho ta thấy tấm lòng đãi ngộ hết sức vị lão thần Trần Đình Ân, khi ông về nghỉ hưu tại Hà Trung . Hơn thế nữa mỗi năm vài ba lần Chúa thân hành đến nơi ở của Trần Đình Ân để cùng bàn quốc kế triều mưu. Do vậy, Nguyễn Khoa Chiêm và con là Nguyễn Khoa Đăng cho lập một con đường từ sông đào Lại An lên đến Hà Trung nơi ở của Trần Đình Ân, để Chúa đến thăm và hội ý. Do vậy bến sông đào Lại An, mới có tên là "Bến ngự." Chính sách “cầu hiền” này từ đầu không những khắc sâu vào bia đá mà còn liên tục đãi ngộ con cháu họ Trần Đình liên tục từ đó về mãi sau này, tỏa sáng nghĩa lớn tụ họp rất nhiều người tài cho xứ sở. Đặc biệt, trong thời Minh Mạng, nhà vua thông minh trác lạc ấy theo gương các Chúa buổi đầu, nhất là của Quang Trung đã tập hợp nhiều nhân tài cho đất nước cường thịnh lên một thời. Nhà vua đã nói: “Người tài quý hơn ngọc thặng, dùng người giỏi không kể Bắc Nam". Nhờ thế Huế mới trở thành Đế đô, Huế mới là nơi hội tụ tài năng một thời, để lại hơn một trăm họ, chứ không phải xứ sở của một dòng họ như nhiều người tưởng nhầm.

4- Qua tấm văn bia, chúng ta được biết một mối tình hiếm thấy giữa Trần Đình Ân với Nguyễn Khoa Chiêm. Theo thế phả họ Trần Đình nhất là qua sách Đại nam Thực Lục (tiền biên tập 1) cũng như qua sách Trịnh Nguyễn diễn chí của Bảng Trung Hầu (tức Nguyễn Khoa Chiêm) viết từ đầu thế kỷ XVII, chúng ta thấy tình đồng liêu buổi đầu giữa hai ông trong thời đại ấy thật là quý. Từ cuối thế kỷ XVI khi Nguyễn Khoa Chiêm còn giữ chức Thủ hợp (ngang nói tỉnh phó sau này) với hàm Bảng Trung tử (xem văn bia), ông đã được người đầu triều là Trần Đình Ân chú ý. Trần Đình Ân thường nói về Nguyễn Khoa Chiêm trước Chúa rằng người này có thể đại dụng "rồi một hôm trước khi xin về nghỉ hưu (1703), Chúa muốn giao chức đầu triều của ông cho con ông. Ông nói? "Con cháu tôi hơn hai mươi người đang giúp Chúa, nhưng nếu thay tôi chỉ có Nguyễn Khoa Chiêm. Rồi khi ông về làng Nguyễn Khoa Chiêm từ chức vụ Thủ hợp tước Bảng Trung tử được nhắc lên Bảng Trung hầu thay Trần Đình Ân giữ chức đầu triều “Tham chính chánh đoan sự ". Khi ông Trần Đình Ân về làng, Nguyễn Khoa Chiêm cùng con một Nội tán Nguyễn Khoa Đăng hết sức ái mộ vị lão thần trung nghĩa ấy. Sự ngưỡng mộ ấy không chỉ vì Trần Đình Ân là bố vợ Nguyễn Khoa Chiêm và là ông ngoại Nguyễn Khoa Đăng "mẹ Đăng là bà Trần Thị Đạm, con gái Trần Đình Ân”, mà là tấm gương sáng nhiều mặt cho sự nghiệp dựng nước đầu tiên ở xứ Đàng Trong, một mối tình đồng liêu quý hiếm, một tấm gương trọng nhân tài của đất nước. Bên cạnh, mối tình của hai họ nội ngoại giữa Trần Đình và Nguyễn Khoa đời đời lưu luyến. Người viết bài này trước đây ít chú ý. Trong nhũng năm học tại Huế, thường được ông Nguyễn Khoa Văn mời về nhà thờ họ ở làng Vĩ Dạ dự lễ họ Nguyễn Khoa hàng năm. Trong hai cuộc kháng chiến, chúng tôi không có điều kiện đi lại với nhau nhưng khi còn được ở Vinh (Thanh Chương), đồng chí Hải Triều cũng thường nhắc lại mối tình keo sơn đó của hai dòng họ. Hòa bình thống nhất, năm 1975  trở đi hai dòng họ chúng tôi lại thường năm dự lễ dâng hương ở Hà Trung cũng như ở Vĩ Dạ. Gần đây khi những di tích về hai dòng họ Trần Đình và Nguyễn Khoa được Nhà nước xếp hạng thành di tích Quốc gia, nhiều bà con ở Huế ra Hà Trung xin góp sức cùng Nhà nước tu tạo lại lăng mộ và khu bia ở Hà Trung. Mối tình đó không chỉ nằm trong hai dòng Họ. Một nét đẹp văn hóa lâu đời mang bản sắc Việt Nam mà còn nêu cao tinh thần trọng đạo lý làm người đối với tổ tiên, tinh thần trọng người tài, nâng đức độ của những con người góp nhiều công sức với đất nước nhất là trong khai hoang lập ấp xây dựng quê hương. Bia “Tứ công thần bia” một di tích thuộc loại xưa nhất của xứ Đàng Trong mang nhiều nét đẹp của dân tộc ở mảnh đất miền Trung.

                                                                                            Huế 30-10-1998

                                                                                                     T.T.T

----------

(1) Quốc Chủ thiên túng Đạo Nhân tức chúa Nguyễn Phúc Lan (1675 - 1725).

(2) Tham chính chánh đoan sự, một chức vụ cao cấp nhất trong thời Chúa Nguyễn.

(3) Tổ khảo là thân sinh, tức chúa Nguyễn Phúc Thái thân sinh chúa Phúc Chu.

(4) Trần hầu gọi tắt là Trần Đình Ân tước Đông Triều hầu.

(6) Về Quảng có nghĩa là về nghỉ hưu tại Quảng Bình (Xưa Minh Linh thuộc trấn Quảng Bình).

(7) Lại bộ Thủ hợp là chức vụ như vụ trưởng một vụ thuộc bộ Lại. Bảng Trung tử là tước của ông Nguyễn Khoa Chiêm khi dựng bia Hà Trung năm 1703. Sau khi dựng “Tứ công thần bia” ba năm thì Trần Đình Ân mất (1706). Nguyễn Khoa Chiêm được thay chức đầu triều tham chính chánh đoan sự với tước Bảng Trung hầu (1703).

(8) Xem Đại Nam Thực Lục (tiền biên) trang 217

 

Trần Thanh Tâm
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 52 tháng 01/1999

Mới nhất

Đồng cảm “Bốn mùa thương nhớ”

23/12/2024 lúc 17:07

Trong cuộc sống của con người thì sự ăn quan trọng vào bậc nhất. Cổ nhân có câu, dịch nghĩa ý rằng: Nước lấy dân làm trời, dân lấy ăn làm trời. Ăn không chỉ để sống, để tồn tại, để lao động, cống hiến mà còn là để khoái khẩu, để thưởng thức, suy ngẫm và trải nghiệm, đó là quan trọng như trải nghiệm ăn uống. Sự ăn không chỉ thỏa mãn đời sống vật dục tất yếu, bình thường và lành mạnh mà còn là văn hóa, hồn vía, là tâm tình, kỷ niệm, là da diết muôn vàn, đến nỗi một người Quảng Trị xa xứ như ký giả Nguyễn Linh Giang dường như cứ luôn mang mang tâm trạng hồi cố, hoài niệm theo Bốn mùa thương nhớ (tập tản văn, NXB Thanh Niên, 2024).

Ký ức chiến tranh trong truyện ngắn Văn Xương

23/12/2024 lúc 17:04

Văn Xương (tên thật Nguyễn Văn Bốn) không phải là một tác giả xuất hiện sớm và có thành tựu sáng tác nổi bật ở Việt Nam. Anh sinh năm 1959 và thuộc lớp những người cầm bút của thời kỳ đổi mới. Những truyện ngắn đầu tiên của anh được giới thiệu trên một số tạp chí, báo địa phương và trung ương khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã lùi xa.

Theo những bước quân hành

23/12/2024 lúc 17:00

Chủ đề người lính là một đề tài lớn, xuyên suốt trong dòng chảy văn học cách mạng Việt Nam và kéo dài đến hôm nay. Đó là một hiện thực khách quan bởi lịch sử đất nước gắn với trường kỳ kháng chiến; và khi xây dựng cuộc sống mới, thì người lính luôn là lực lượng xung kích đi đầu, đồng hành cùng nhân dân. Có thể hình dung sự vẻ vang ấy qua những tác phẩm trong tập sách Vang mãi khúc quân hành (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2024).

Nắng trên thành cổ; Người lính hát

23/12/2024 lúc 16:56

Nắng trên thành cổ Một rêu phong trên tường thành muôn năm cũMột nguyện cầu dài trong chấp chới tiếng chuông xaMột thanh xuân giữa ầm

Trăng biên giới; Có một nơi xa nào

23/12/2024 lúc 16:54

Trăng biên giới Ánh trăng là ánh đènĐêm tuần tra biên giớiBước chân không biết mỏiTrăng làm bạn thân quen Trăng lên cao dốc đứngNhìn rõ những

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

27/12

25° - 27°

Mưa

28/12

24° - 26°

Mưa

29/12

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground