Những ngày cuối đông, se lạnh. Tôi tìm về làng Đạo Đầu (xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong) quê hương của vị tướng Phan Văn Thúy với một hy vọng rất đổi mỏng manh rằng những trang phổ và những ký ức từng vang bóng về một thời về vị danh tướng đầu tiên Triều Nguyễn liệu còn lưu lại một điều gì đó bổ ích. Đã lâu người danh trong vùng có thói quen gọi ngài là ngài Hậu quân thay vì tên tự để tỏ lòng tôn kính. Tôi chọn cách xưng hô này cũng không ngoài mục đích trên. Vả lại kỵ húy cũng là một tập tục thể hiện nét đẹp văn hóa truyền thống lâu đời có trong nền văn minh dân giả.
Gia phổ ở nhà thờ họ Phan, bản cũ bằng chữ Hán lập vào đời Thanh Thái năm thứ 15. Bản mới nhất chữ quốc ngữ, quay ronéo do ông Phan Văn Dật dịch ra từ bản gốc (1957). ông Dật nguyên giáo sư dạy các trường Đồng Khánh, cao đẳng Mỹ thuật và dạy Hán nôm ở Đại Học Văn khoa Huế, thi sĩ nổi tiếng một thời với Bâng khuâng, Con Đường tơ lụa. Gia phổ chép vắn tắt, ngày giờ năm sinh năm mất, tên húy, tự, thụy, hiệu, mộ táng ở…thứ tự từng đời người không chép rõ hành trạng. Đạo Đầu đại xã, đình làng xưa gồm một quần thể 3 ngôi: Đình Thượng, đình Trung, và đình Hạ. Mười hai họ đều có nhà thờ. Đình làng thờ thần, thờ chung cả ngài Hậu quân, đập dỡ đi từ năm 1978. Hiện vật hiếm quý của ngài để lại gồm bộ kiếm 5 chiếc, thanh đại đao và cả thần chú, sắc phong trước thờ ở nhà thờ họ Phan nay đều đã mất. Lăng mộ của ngài tọa ở Cồn Bàu thôn Đạo Đầu, năm 1978 phóng tuyến kênh thủy lợi Nam Thạch Hãn ngang qua đã dời đến nghĩa địa mới. Khuôn viên lăng cũ rộng trên mẫu đất nay thành bình địa nhưng những dấu vết như cổng, tường thành chưa mất hẳn. Được biết lăng trước có hầm mộ chôn chung ngài Hậu quân với bà Tôn Thất. Cải táng 1978 tính ra tròn 145 năm, trong quan ngoài quách, kim cốt còn nguyên. Bộ áo quan kích cỡ quá lớn, chắc chắn đến mức không tháo gỡ được đành phải cưa ngang các mộng. Sáu tấm áo quan hiện lưu giữ ở nhà thờ họ Phan có lẽ là hiện vật duy nhất con cháu còn giữ được về ngài.
Tất cả đều ngoài thế kỷ rưỡi với bao biến cố thăng trầm, dấu tích về một con người, dẫu là vĩ nhân, nửa còn nửa mất. Những cố gắng ghi nhận qua lần điền dã này, tôi sẽ bổ sung vào phần thân thế của ngài Hậu quân mà sử cũ chép rất ít ỏi.
***
Về thân thế ngài Hậu Quân hầu hết sách sử cũ không ghi rõ năm sinh. Gần đây, Từ điển nhân vật lịch sử Việt
Ngài hậu quân có đến 5 bà thiếp: Nguyễn Phối phu nhân bà Lê Thị Đeo gốc ở làng. Kế phối phu nhân bà Tôn Thất Thị Thứ, thế hệ thứ bảy trong dòng họ Hoàng tộc, thứ nhất cung nhơn bà Lâm Thị Thái và 2 thứ thiếp bà Nguyễn Thị Thông và Nguyễn Thị Viện. Sinh Hạ được tất cả 14 người con: 6 trai, 8 gái, bà Lâm Thị Thái, thụy Từ Thục, gốc người Trung Quốc (cha người Thanh, phủ Triều Châu, Quảng Đông, mẹ người Mân, huyện Kế Xương, Triều châu) sau dời về châu Đông Tư, tổng Long Đại, phủ Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bà Lâm sinh hạ được người con trai Phan Văn Úynh về sau được chọn làm phò mã cưới công chúa An Thường. Gia Phổ ghi: “Nguyên phối hoàng tử tấn phong An Thường, thái trưởng công chúa, thụy Mỹ Thục, húy Lương Đức”…Thái trưởng công chúa tức con gái đầu của vua. Nhưng theo Đại Nam liệt truyện thì công chúa An Thường là con gái thứ 4 của Thánh tổ Nhân Hoàng đế (tức vua Minh Mạng).
Công chúa đẹp người đẹp nết: “Tốt đẹp thay chị ta – dịu dàng thành thực – đội mũ, cài tóc khoan thai – nói không ra ngoài bậc cửa…” (thơ của Hàm Thuận công Miên Thủ, hoàng tử thứ 9, em trai cùng mẹ với công chúa). Nổi tiếng hiếu để được vua Minh Mạng rất yêu quý: Năm lên 9 tuổi, mẹ đẻ ốm gặp tiết vạn thọ các hoàng nữ vào hầu cơm. Quan tiến món đuôi dê, mầm dê (mầm sữa của dê cái), vua chia ban cho các hoàng nữ ăn. Đến lượt công chúa chỉ ngậm mà không nuốt. Thấy lạ, vua hỏi tại sao, công chúa ra khỏi bàn tiệc tâu rằng: “Mẹ thần có bệnh không được thăm ơn. Thần trộm nghe vị này rất bổ nên để lại cho mẹ”. Vua khen ngợi cho riêng một đĩa khác mang về cho mẹ. Ai cũng cảm kích, có người chảy cả nước mắt. Năm thứ 18 (1838) mùa đông, gặp tang mẹ đẻ thương xót để thân còm gầy, hết lễ. Năm thứ 21, vua không khỏe chúa thân sắc thuốc, nấu cháo để tiến sớm chiều hầu hạ không mỏi. Đến ngày vua mất, chúa thương đau ngất đi tưởng tắt thở. Hiến tổ (vua Thiệu Trị), thường lấy cháo của vua ăn còn lại đem cho, dụ nên bớt lòng thương. Đến khi đem chôn theo hầu bàn thờ, chực hầu đền thờ ở mả trọn trong 3 năm chưa từng thấy cười đùa.
Năm Thiệu Trị thứ nhất (công chúa tròn 24 tuổi) “gả cho người ở Thuận Xương Quảng Trị là Văn Oánh con trai thứ 4 của Đô thống phu chưởng phụ sự, chương nghĩa hầu Phan Văn Thúy…” Sau khi vu quy tình vợ chồng rất yêu mến thiết tha, không ra vẻ là con vua, thờ mẹ chồng, dạy con, giữ đức khuê môn’’.
Năm 1863, phò mã ốm chết, công chúa dâng sớ xin đắp sinh phần để kế ngày sau hợp táng. Sớm hôm lui tới cửa phật vui đạo, pháp danh Thuyền Dương, hiệu thanh từ (Lược trích về công chúa An Thường Đại
Họ Phan nói riêng, Quảng Trị nói chung có người con dâu là công chúa hiền thục, nết nha như thế tưởng cũng nên nhắc lại đôi dòng để chiêm ngưỡng.
Một điểm nữa về tên của ngài Hậu quân nên dịch âm thế nào cho chuẩn xác. Tên tự của ngài gia phổ chép Túy thay vì sử chép là Thúy. Hiện tượng này làm chúng ta liên tưởng đến chữ Túy trong địa danh chùa Túy Vân hoặc ở Thừa Thiên - Huế, dân địa phương vẫn gọi là núi Thúy Vân. Trong Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, chị em, Thúy Kiều, Thúy Vân có nơi có lúc vẫn gọi là Túy Kiều, Túy Vân. Túy hoặc Thúy ở đây đều dịch từ gốc chữ Hán bên tả chữ ngọc, trên chữ vũ hoặc võ, dưới theo chữ tốt. Mục lục Châu bản triều Nguyễn (tập 2 do Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế xuất bản, tr.28), dịch âm chữ này là “Túy ngọc hầu Phan Văn Túy, vệ úy thuộc nội vệ trung tín nhứt, chuẩn bị giữ bản chức làm quản đạo xứ Thanh Bình…” Túy ngọc hầu Phan Văn Túy cũng như sở ngọc Hầu Ngô Văn Sở, Duyệt quận Công Lê văn Duyệt…dịch tước và tên như thế thì không lẫn vào đâu được. Nhà văn Hồ Biểu Chánh, trong bộ tiểu thuyết lịch sử “Ngọn cỏ gió đùa” viết về trận hãm thành Phiên An (Gia Định) cũng gọi tên tự của ngài là Phan Văn Túy.
Như vậy ngay cả trong chính sử, tên của ngài hậu quân được dịch âm theo 2 cách. Thói quen trong ngôn ngữ dẫu khó sửa chữa tới đâu, tôi vẫn muốn đính chính chỗ nhầm lẫn này. Nên phiên tên ngài là Túy đúng với âm đương thời người đời đã gọi, con cháu bảo lưu chép trong phổ. Vẽ lại một vị tướng lừng danh như ngài hậu quận âm Túy phản ánh tư chất, nam nhi hơn là Thúy.
***
Dọc theo con sông Vĩnh Định buổi chiều mưa giăng tôi sực tỉnh ra: Còn đây con sông đào, hiện vật trường tồn, sống mãi với sự nghiệp lớn lao của vị lão tướng. Con sông huyết mạch giao thông đường thủy một thời từ kinh đô Huế lên đến chợ phiên Cam Lộ ra Cửa Tùng, Nhật Lệ, do ngài đốc binh đào vào năm Minh Mạng, Thiệu Trị theo con sông đào Vĩnh Định hảnh hương về Thành cổ Quảng Trị cội nguồn; Đại giá Bắc Thành, phụng chế thi chương khắc vào bia đá? Và ngược dòng lịch sử chưa xa, còn đó câu hò nhộn nhịp một thời trên thương trường sông nước: “Trồng trầu trồng lộn dây tiêu. Con đi đò dọc, mẹ liều con hư”. Đò dọc khác với đò ngang là đi đường dài, đi buôn chuyến.
Đào sông phục vụ nhân sinh và quốc phòng, hai lần dựng bia lớn ở nam, bắc bờ sông (thôn An Nhơn) cũng như việc chọn con sông này khắc vào Cửu Đỉnh có phải các vị hoàng đế muốn báo công, ghi công trước Trời – Đất và con người? Cuộc đời của ngài Hậu quân sẽ đẹp đẽ, lớn lao và ý nghĩa hơn ở phần sự nghiệp. Có dịp tôi giới thiệu trong một bài viết khác.
Y.T