Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 14/01/2025 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Tiên Sơn thi tập và vấn đề của hậu thế chúng ta

C

ó thể dẫn độ ra đây toàn thể những dòng chữ viết về thân thế sự nghiệp của Trần Đình Túc trong cuốn từ điển Nhân vật lịch sử Việt nam (NXB KHXH, Hà Nội 1991) của Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế:

"Trần Đình Túc (? - 1892), Danh sĩ, nhà ngoại giao cận đại, quê huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị. Năm Nhâm Dần 1842, ông đỗ Hương tiến (cử nhân). Đời Thiệu Trị ông làm quan đến chức Quản đạo Phú Yên. Đời Tự Đức ông được thăng Hồng lô tự Khanh, trải qua các chức vụ Tán tương quân thứ ở Biên Hòa, Biện lý Bộ Hình, Danh điền sứ Thừa Thiên - Quảng Trị, rồi được gia hàm thị lang bộ Hộ (1865).

Năm Mậu Thìn 1868; ông nhận được lệnh đi công tác ở Hương Cảng, khi về lãnh chức Tuần Vũ Hà Nội, rồi đổi qua Hưng Hóa, sau đó làm Tán tương quân vụ Sơn - Hưng - Tuyên.

Năm quý dậu 1873, giặc Pháp đánh chiếm Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình. Ông được cử làm Tổng đốc Hà Nội cùng Tuần vũ Nguyễn Trọng Hợp và Án sát Trương Gia Hội đi thương nghị với Pháp, sứ mạng hoàn thành ông được phong thực thụ Tổng đốc.

Ông xin về hưu nhiều lần nhưng không được. Năm 1882 giặc Pháp chiếm Hà Nội lần 2, ông lại được cử làm khâM sai Đại thần lãnh Tổng đốc Hà Nội, giao thiệp với giặc Pháp. Sau đó có biến ở Thuận An, ông lãnh chức Thượng Thư bộ Lễ sung toàn quyền đại thần, đi dàn xếp mọi việc.

Trước cuộc xâm lăng của giặc Pháp, ông thuộc phe chủ hòa, chuyên làm công việc thương lượng, chấp nhận các yêu sách của chúng.

Năm Tân Mão 1891, ông được phong Hiệp biện Đại học sĩ, năm sau ông mất tại quê nhà.'

Những dòng tiểu sử tuy gãy gịn nhưng tác giả Từ điển cũng đã tiếp cận, chỉ ra được những khía cạnh nổi bật ở con người này. Ông là một danh sĩ, người trí thức nổi tiếng thức thời dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn trên các phương diện cải tổ, ngoại giao, dinh điền sứ; và kể cả khía cạnh ưu thời mẫn thế. Có bổ sung cũng chỉ bổ sung một dòng về thân thế: ông sinh năm 1804 và mất 1892 ở làng Hà Trung, huyện Địa Linh nay là Do Linh. Riêng về sự nghiệp của ông thì còn có chỗ quan trọng đáng phải bàn: đó là di sản văn học của ông để lại cho hậu thế.

Hơn một lần sách Đại Nam thực lục đã nhắc đến tập thơ Tiên sơn thi tập của Trần Đình Túc, nhưng việc tìm ra nó không dễ. Nhân chuyến vào Huế hồi cuối tháng 4 này sưu tập thơ văn tác giả Quảng Trị tôi mới có dịp tìm đến làng Bàn Môn, Phúc Lộc, Thừa Thiên - quê hương thứ hai của ông. Cũng như ở Hà Trung, hậu duệ của ông ở nhà thờ Trần Đình làng Bàn Môn không lưu giữ lại được gì nhiều về ông, ngoài cuốn gia phả.  Đó là việc ông đề cập đến bộ sách có tên là Tiên sơn chủ nhân toàn tập mà theo ông, ông đã tập hợp lại toàn bộ thơ, văn, số biểu của ông, cộng tất cả gồm 19 quyển lưu lại cho con cháu đời sau làm gia biểu. Như vậy ngoài thơ (Tiên sơn thi tập) ông còn để lại cả một di sản đồ sộ về văn (tự). Thế nhưng khi được hỏi tới, ông T.Đ.T cho biết toàn bộ thủ bút của ông đã bị cháy, mới đây, trong biến cố Mậu Thân 1968. Tiếc quay tiếc quắt thật. Tôi quay về thành phố Huế và ở đây, đã vớ được tập thơ Tiên sơn thi tập. Công lao gần như phát hiện này là do PGS Nguyễn Xuân Hòa photocopy, nhân bản được từ thư viện Hán Nôm Hà Nội mang về.

Bản gốc Tiên Sơn thi tập ở thư viện Hán Nôm mang ký hiệu Vhv 1425, dưới dạng chép tay, viết bằng chữ Hán (chữ thảo, giấy bản cỡ 20 x 10cm, tập dày 132 trang với 200 bài thơ, chủ yếu là thể thơ Đường luật, một số ít thơ cổ phong. Tập thơ hiện vẫn chưa được phiên âm và dịch ra thơ, nhưng khi được hỏi tới nội dung và đề tài, PGS Nguyễn Xuân Hòa cho biết sơ bộ như sau:

Mảng thơ nói về mối quan hệ bạn , hầu hết trong giới quan chức, trí thức yêu nước cùng thời. Ví như các bài thơ: "Đền thờ ở điện vân quán Tùng quốc công" (tức Tùng Thiện Vương), "Tiễn tập hiền viện Phạm Phú Thứ về an dưỡng", "Thơ tặng án sát sứ Nguyễn Hàm Ninh", "Họa nguyên vận thơ Đặng Hoàng Trung" (tức Đặc Huy Trứ), "Tặng tiến sĩ Đỗ Văn Quỳnh", " Tiễn Trương Gia Hội được bổ chức quan Phủ Thuận Khánh về nơi sở lị", "Họa nguyên vận bài thơ của tổng đốc Hà Nội - Ninh Bình", "Thơ lưu giản các văn thân Hà Nội"… Mảng đề tài lớn thứ hai là thơ Vịnh cảnh. Nhiều bài trong tập như "Quá hành Sơn" (Qua bãi biển đá nhảy), "Vịnh khổ qua" (mướp đắng), "Quá Tam Điệp", "Biệt núi Nùng", "Biệt Nhị Hà", "Hắc Bạch Thạch" (Vịnh đá đen đá trắng), "Đền Ký Vân", "Linh Thái", "Hải Vân quan", "Đầm phá Hà Trung", "Thôn cư ngẫu hứng", "Lên kỳ đài Hà Thanh"… Mảng thơ thứ ba là thơ Vịnh việc. Loạt bài như "Ký sựu ngâm", "Trung thu hứng tác", "Gửi quý vị quân tử Hà Thành", "Cảm tác khi nghe chát chẩn", "Nghe quan quân Hà Nội thu được thắng lợi", "Những điều nghe thấy khi tái vãng Hà Thành", … và cuối cùng mảng thơ tự nói về mình về gia đình mình. Đó là các bài thơ "Tự thuật", "Tự trào", "Bệnh trung ngâm" (Tự trào sau khi ốm dậy), "Độc tọa hữu cảm" (ngồi một mình cảm xúc), "Nỗi trầm tư", "Canh Ngọ trừ tịch", "Đêm đông không ngủ được dậy làm thơ", "Lại không ngủ được", "Thuật Hoài"… Thực ra, việc phân loại các đề mục trong Tiên Sơn thi tập chỉ là một cách diễn đạt để chúng ta dễ tiếp cận và hình dung ra quy mô tập thơ, chứ đâu là thơ Vịnh cảnh, Vịnh người, Vịnh sự việc ngay trong một bài thơ của Trần Đình Túc cũng khó mà tách bạch ra được. Và cuối cùng vẫn là việc đánh giá nội dung, khi mà chúng ta chưa tổ chức phiên âm và dịch toàn bộ 200 bài thơ kia được, thì chưa ai dám nói trước được điều gì.

Rõ ràng từ trong di sản của chúng ta, những tập thơ như Tiên sơn thi tập những tác giả như Trần Đình Túc cần phải có kế hoạch, có nguồn đầu tư kinh phí tối thiểu để dịch thuật, in ấn, làm quyển, phải bảo vệ và phát huy, không nên hoài phí mãi truyền thống văn học cổ điển của tỉnh nhà, đất nước.

Nhân giới thiệu tập thơ Tiên Sơn thi tập của Trần Đình Túc, được sự đồng ý của PGS Nguyễn Xuân Hòa và Nguyễn Đình Thảng, người viết chuyển đến bạn đọc chùm thơ vừa được phiên âm và dịch thơ từ bản gốc nói trên. Hy vọng qua đây chúng ta nắm bắt được phần nào con người thi nhân của Trần Đình Túc.

1. BIỆT NÙNG SƠN

Nùng Sơn tĩnh đối tĩnh vô ngôn

Vạn cổ chung linh ủng độc tôn

Thiên lý quan du tam trú tiết

Danh thành nhân thoái kỹ thừa ân.

 

BIỆT NÚI NÙNG

Núi Nùng tĩnh lặng, đối không lời

Vạn cổ chung linh, độc gõ thôi

Muôn dặm quan trường lưu phẩm tiết

Danh thành thân thoái đội ơn trời

(Phiên âm và dịch thơ:Nguyễn Xuân Hòa).

 

2.  TÙNG QUỐC CÔNG ĐIỆN VÂN QUÁN ĐỀ BÍCH ỨNG GIAO

Đế tứ thành nam nhất mẫn cung

Sắc loan hoa khí nhập liêm lông

Đào viên thắng lợi lưu quần quý

Thụ phúc cao ca dẫn nhập ông

Bàn thái thời đàm kim mẫu tịch

Ỷ la cầm độc ngọc đài phong

Thiên nhan xích chỉ tâm nhưng luyến

Ngũ sắc tường vân tại vọng trung.

 

ĐỀ THƠ LÊN VÁCH TƯỜNG ĐIỆN VÂN QUÁN CỬA TÙNG QUỐC CÔNG

Một góc thành nam đức Trọng cung

Sắc hương lan lý tỏa không trung

Đào viên lễ hội luôn quần tụ

Phúc lộc ca từ dẫn nhập ông

Xuống chiếu luận đàm Vương Thánh mẫu

Dựa tường khẻ đọc Ngọc đài phong

Thiên nhan gang tấc lòng lưu luyến

Năm sắc mây lành hướng vọng cung

(Phiên âm và dịch thơ:Nguyễn Xuân Hòa)

 

3- TÔNG TRƯƠNG BAN BIỆN THƯỚNG KINH

Đô môn hồi mã tức tiên trần

Trịnh trọng đàm tâm sổ dạ thân

Thanh nhãn bằng quân khan ẩn lại

Bạch đầu cố ngũ tác nhàn nhân

Giao tình tự thủy thê lương thậm

Thế sự như vân tụ tán tần

Thượng luân đăng đồ nam nhi trái

Gia thanh quốc sũng lưỡng bình phân.

 

ĐƯA TRƯƠNG BAN BIỆN VỀ KINH

Cửa đô về lại quá tiên trần

Trò chuyện mấy đêm thật thiết thân

Ngắm kỹ mắt xang, ngài ẩn sĩ

Nhìn qua đầu bạc, tớ nhàn nhân

Giao tình như nước thê lương lắm

Thế sự dường mây tụ tán dần

Nam tử nợ đời còn phải trả

Tình nhà, lộc nước cả hai phần.

(Phiên âm và dịch thơ: Nguyễn Xuân Hòa)

 

4. TỰ TRÀO

Khẳng khái lâm du hãnh tấu công

Mạn đề Nam Bắc thuyết binh nhung

Tức vân thiện chiến niên di thỉ

Vãng ngộ đàm binh dĩ hóa cung

Mộng cnhr hữu thời xu quỉ mị

Phù sinh vô số thức anh hùng

Khả liên thảo mộc đồng khô hủ

 Độc tuyển nhân gian nhất thọ ông

 

TỰ GIỄU CỢT MÌNH

Khẳng khái đó đây quyết lập công

Mơ hồ đề xuất thuyết binh nhung

Cho hay thiện chiến đâu cần đạn

Giỏi việc binh đao ắt hóa cung

Cõi mộng có thời xua quỉ mị

Phù sinh bao kẻ tưởng anh hùng

Cảm thương cây cỏ đều khô mục

Dành lại cho đời một lão ông.

(Phiên âm và dịch thơ: Nguyễn Đình Thảng)

 

5. CANH NGỌ TRỪ TỊCH

Quá khách quang âm tự tiễn trì

Tân thiêm bạch phát tiệm thành ti

Lưỡng niên thử tịch tương chung thủy

Ký vãng tương lai tử tế suy.

 

ĐÊM CUỐI NĂM CANH NGỌ

Khách qua khe hở tựa tên bay

Tóc bạc thành tơ cũng hóa hay

Mới cũ hai năm cùng tối ấy

Cũ đi mới đến hỏi ai bày.

(Phiên âm và dịch thơ: Nguyễn Đình Thảng)

Y Thi
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 57 tháng 06/1999

Mới nhất

Tên gọi của Trung đoàn

10/01/2025 lúc 21:47

Chớm vào thu. Bầu trời rưng rưng những cơn mưa bất chợt. Những cơn mưa đám mây giăng giăng như

Trùng phùng ở Prin C

10/01/2025 lúc 21:43

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bản Prin C (nay thuộc huyện Sa Muồi, tỉnh Salavan,

Đông Hà xanh trên nền đất khát

10/01/2025 lúc 16:22

Đông Hà những ngày đầu như tôi thấy, mùa hè thị xã quắt lại trong nắng gió, núi đồi cứ nhấp nhổm. Các con đường ngoằn ngoèo, lên xuống nên tôi liên tưởng: Sau này lấy bản quy hoạch phố của Đà Lạt mà theo! Nói vui như vậy, vì thị xã lúc đó trần mình giữa dầm dề mưa và chang chang nắng. Tàn tích của sân bay, quân cảng; của quốc lộ, ngã ba… đầy ám ảnh trơ trơ trong mưa rét và xào xạc gió phơn. Thế mà ngay bên hông thị xã trẻ trung, hơi chếch về phía nam có một rừng cọ dầu bời bời xanh tốt. Nó khác hoàn toàn với màu bàng bạc của trơ trọi. Tôi được biết rừng cọ trồng từ năm 1977, là món quà hữu nghị của Malaysia nhằm phủ xanh những vùng đất cằn cỗi sau chiến tranh; dầu cọ còn được sử dụng làm chất đốt và phục vụ đời sống sinh hoạt.

Sở Thông tin và Truyền thông tổng kết công tác năm 2024

10/01/2025 lúc 10:54

TCCVO - Chiều 9/1/2025, Sở Thông tin và Truyền thông (TT&TT) tỉnh Quảng Trị tổ chức hội nghị tổng kết công tác năm 2024,

Giữ lửa nghề truyền thống giữa nhịp sống hiện đại

10/01/2025 lúc 10:09

Tọa lạc bên bờ nam sông Hiếu, làng nghề rèn ở phường 3, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị từ lâu được biết đến với bề dày lịch sử và văn hóa truyền thống, tồn tại qua nhiều thế hệ. Những lò rèn từng đỏ lửa sớm hôm, tiếng búa đe vang vọng khắp vùng gắn liền với cuộc sống lao động và sinh hoạt của người dân nơi đây. Thế nhưng, dưới sức ép của thời đại công nghiệp hóa, làng nghề rèn đang đứng trước nguy cơ mai một. Hiện nay, cả phường chỉ còn lại khoảng 4 lò rèn hoạt động thường xuyên, so với hàng chục lò ở thời kỳ “hoàng kim” cách đây hai thập kỷ.

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

15/01

25° - 27°

Mưa

16/01

24° - 26°

Mưa

17/01

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground