G |
om góp từng hạt nước từ khe suối của vùng Muang Samoyoy (huyện Mường Noòng, Savanakhẹt, Lào), dòng Sê Pôn như bản trường ca lặng lẽ băng qua bao thác ghềnh, vực xoáy, tuôn chảy dưới vầng lá u sầm của đại ngàn Trường Sơn để trước khi đổi dòng quay ngược trở lại dòng “sông mẹ” Mê Kông trên đất nước Lào đã kịp trở thành dòng sông biên giới chảy qua 8 xã, thị trấn của Việt Nam. Ở hai bên bờ của con sông miền biên ải, người dân hai nước Việt Nam – Lào đang hàng ngày, hàng giờ bằng những việc làm nhỏ để gắn kết, vun đắp tình hữu nghị keo sơn, bền chặt Việt – Lào.
“CHÌA KHÓA” GẮN KẾT BẢN – BẢN
“Việc vận động nhân dân các cặp bản kết nghĩa trên tuyến biên giới Việt Nam – Lào giúp nhau phát triển kinh tế từ lâu đã được lực lượng biên phòng xem là “chìa khóa” của sự gắn kết bản – bản. Chính sự gắn kết đó sẽ hướng người dân đến mục tiêu tự nguyện phối hợp với lực lượng biên phòng bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội…” - Trung tá Nguyễn Thanh Bình, Đồn phó Đồn Biên phòng Tam Thanh đã nói với chúng tôi như vậy.
Sau quãng đường gần 80 – 90 km rát mặt với từng đợt gió lào nóng bức khi ngược QL 9 từ thành phố Đông Hà lên thị trấn Khe Sanh sau đó là đoạn đường từ ngã ba Tân Long vào vùng Lìa lóc xóc ổ gà, ổ voi, chúng tôi có mặt tại Đồn Biên phòng Tam Thanh. Không “rào trước đón sau”, Trung tá Nguyễn Thanh Bình, Đồn phó Đồn Biên phòng Tam Thanh vào chuyện: “Các anh lên đây thì nên vào các cặp bản kết nghĩa để tìm hiểu đời sống của nhân dân và lắng nghe người dân nói thì tôi nghĩ là bài báo mới có sức thuyết phục”
Rồi Trung tá Nguyễn Thanh Bình thông tin thêm cho chúng tôi một số kết quả đã đạt được trong việc kết nghĩa bản - bản trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Từ cái mốc thời gian ngày 28/4/2005, tỉnh Quảng Trị tổ chức lễ kết nghĩa giữa bản Kà Tăng (thị trấn Lao Bảo, Hướng Hóa, Quảng Trị) với bản Đensavẳn (huyện Sê Pôn, Savanakhẹt, Lào) đến nay đã có 23/23 cặp bản đối diện hai bên biên giới giữa tỉnh Quảng Trị với tỉnh Savankhẹt, Salavan (Lào) đã thực hiện việc kết nghĩa bản – bản. Sau 5 năm thực hiện kết nghĩa bản – bản (từ tháng 4/2005 đến tháng 9/2010 và chưa có số liệu cụ thể của năm 2011, 2012) ở lĩnh vực bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội… đã đạt được những kết quả khá ấn tượng như nhân dân đã tích cực tham gia với lực lượng chuyên trách của mỗi bên tổ chức 517 lượt/3.102 lượt người tham gia tuần tra bảo vệ đường biên cột mốc; 111 thôn (bản) cam kết tự quản về an ninh trật tự với 9.866 hộ đăng ký nhân dân cung cấp cho lực lượng chức năng quản lý biên giới của Việt Nam-Lào hơn 586 nguồn tin trong đó có 300 nguồn tin có giá trị liên quan đến bọn tội phạm buôn bán ma túy, chất nổ, chất cháy, buôn bán phụ nữ qua biên giới…Về lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội với việc đã hỗ trợ cho nhân dân các bản kết nghĩa của Lào hơn 50.000 giống sắn KM94; 7.000 cây keo tai tượng, tràm hoa vàng; 125 kg giống ngô lai; 1.500kg giống các loại cây ăn quả; 500 con giống gia súc, gia cầm. Tiến hành khám, chữa bệnh cho 6.326 lượt người; cấp phát thuốc sốt rét cho 4.824 lượt người và hỗ trợ trên 100 triệu đồng cho người dân nước bạn Lào bị lụt bão, cháy nhà…
Dừng câu chuyện để gọi điện thoại cho Thiếu tá Nguyễn Đức Phong, người mà theo Trung tá Nguyễn Thanh Bình là gắn bó mật thiết với người dân các cặp bản kết nghĩa trên tuyến biên giới do Đồn Biên phòng Tam Thanh phụ trách về Đồn để dẫn chúng tôi vào bản Xi Ra Man (xã Xy) là bản kết nghĩa với bản Ổi (huyện Mường Noòng). Trong lúc ngồi chờ Thiếu tá Nguyễn Đức Phong, Trung tá Nguyễn Thanh Bình tiếp tục câu chuyện: Riêng Đồn Biên phòng Tam Thanh của chúng tôi phụ trách 4 xã (32 bản) gồm các xã Thanh, A Xing, A Túc, Xy và quản lý 35 km đường biên mà chủ yếu là trên sông Sê Pôn. Hiện tại 4 xã mà Đồn Biên phòng Tam Thanh phụ trách có 4 cặp bản kết nghĩa gồm bản A Ho (xã Thanh, Hướng Hóa) kết nghĩa với bản Đenvilay (huyện Mường Noòng); bản Thanh (xã Thanh) kết nghĩa với bản Pa Riềng (huyện Mường Noòng); bản Thanh 4 (xã Thanh) kết nghĩa với bản Pa Lọ Cô (huyện Mường Noòng); bản Xi Ra Man (xã Xy) kết nghĩa với bản Ổi (huyện Mường Noòng). Đến thời điểm hiện tại có thể khẳng định là từ khi thực hiện chủ trương kết nghĩa bản- bản, đời sống của nhân dân ở các cặp bản kết nghĩa đã đổi thay một cách đáng ghi nhận. Đặc biệt nhân dân 4 bản kết nghĩa của nước bạn Lào được sự giúp đỡ nhiệt tình của các bản kết nghĩa phía Việt Nam từ giống cây trồng, vật nuôi rồi bao tiêu tiêu thụ sản phẩm nông sản nên đã dần thay đổi tập quán canh tác lạc hậu như đốt rừng làm nương rẫy để chuyện sang trồng nhiều loại cây có giá trị kinh tế cao. Nói đâu xa, như bản Ổi, Đenvilay, Pa Riềng, Pa Lọ Cô trước đây người dân chỉ biết trồng lúa rẫy…bây giờ họ đã bắt đầu trồng sắn, chuối, bời lời. Cụ thể, bản Ổi có 20 hộ trồng chuối trên diện tích 11 ha; 60 hộ trồng sắn trên diện tích 35 ha và mỗi năm thu 60 triệu đồng tiền bán chuối. Bản Đenvilay có 28 hộ trồng bời lời trên diện tích 27,6 ha; 33 hộ trồng chuối trên diện tích 26,7 ha; 55 hộ trồng sắn trên diện tích 60 ha; mỗi năm thu 300 triệu đồng tiền bán chuối và 700 tấn sắn/năm. Bản Pa Riềng có 8 hộ trồng bời lời trên diện tích 5 ha; 24 hộ trồng sắn trên diện tích 19,7 ha. Bản Pa Lọ Cô có 59 hộ trồng bời lời trên diện tích 61 ha; 53 hộ trồng chuối trên diện tích 32 ha; 117 hộ trồng sắn trên diện tích 129 ha; mỗi năm thu 500 triệu đồng tiền bán chuối và 2.520 tấn sắn/năm. Những con số trên là minh chứng rõ ràng và sinh động nhất cho việc các cặp bản giúp nhau làm kinh tế.
Theo chân Thiếu tá Nguyễn Đức Phong chúng tôi đến bản Xi Ra Man (xã Xy), vừa đặt chân đến cầu thang dẫn lên ngôi nhà sàn khang trang nằm giữa bản, đã thấy già làng Hồ Ray đứng ở cửa nhà, tay cầm chai rượu với mấy gói bánh như chuẩn bị đi đâu đó. Hỏi ra mới biết, già làng Hồ Ray đang định sang thăm mấy “ông bạn” bên bản Ổi. Không bỏ lỡ cơ hội, chúng tôi theo già làng Hồ Ray vượt sông Sê Pôn sang bản Ổi. Tiếp chúng tôi là Thào Hang, Phó bản Ổi. Phó bản Thào Hang không nói sỏi tiếng Việt nên già làng Hồ Ray phải làm phiên dịch “bất đắc dĩ” cho chúng tôi. Thào Hang cho biết: “Dân bản Ổi bây giờ no bụng, ấm lòng cả rồi…Ngày xưa đói nghèo cũng do dân bản không biết chọn đất trồng sắn, trồng chuối mà cứ đến mùa thì lên nương, lên rẫy chọc từng lỗ rồi khom lưng gieo hạt…đến vụ thu hoạch chỉ được mấy a choi nên ăn tằn tiện lắm thì cũng chỉ đủ ăn vài tháng là phải vào rừng đào củ mài, săn con thú đế chống đói. Dân bản Ổi miềng nhớ mãi cái ngày 3/3/2011 khi bản Xi Ra Man (xã Xy) kết nghĩa bản – bản với bản Ổi. Từ ngày đó trở đi, dân bản Xi Ra Man thường sang bản Ổi bày cho dân bản tìm những đám đất bằng phẳng, màu mỡ để trồng chuối, sắn, bời lời và còn mang sang cho dân bản giống sắn, chuối, bời lời có năng suất cao. Lúc đầu dân bản Ổi của miềng chưa tin cách trồng chuối, sắn, bời lời của dân bản Xi Ra Man nhưng rồi sang chơi và được dân bản Xi Ra Man đưa lên xem rẫy chuối, sắn, bời lời…nhiều người dân bản Ổi như “sáng mắt, sáng lòng”. Khi đã “sáng mắt, sáng lòng” rồi thì phải học dân bản Xi Ra Man thôi. Và nhiều hộ dân bản Ổi bắt đầu tìm đất trồng chuối, sắn, bời lời….Sắn, chuối trồng được thì mang sang Việt Nam bán lấy tiền để đuổi đói, xóa nghèo”.
“Khi nào bên bản Xi Ra Man biết cách trồng cao su tiểu điền thì Hồ Ray nhắn cho dân bản miềng sang học cách trồng cao su với nhé…Bây giờ đã no cái bụng thì phải tính đến chuyện dựng cái nhà thật lớn, thật đẹp mà muốn dựng được nhà đẹp thì không còn cách nào khác ngoài việc trồng cao su để tương lai có tiền dựng nhà”. Đó là lời nhắn gửi của Thào Hang với già làng Hồ Ray khi chia tay. Lời nhắn ấy của Thào Hang làm tôi chợt hiểu sâu xa hơn câu nói ví von của Trung tá Nguyễn Thanh Bình khi anh bảo rằng “chìa khóa” gắn kết bản- bản chính là giúp nhau phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo bền vững.
ine-he�
z:4��� 8�� line-height-rule:exactly'>rỉ máu
ôi giọt máu hồn nhiên còn vương trên chiếc giỏ tre bà tôi để
lại
giờ đựng nỗi buồn trong mối mọt thời gian
Bao đêm ngái xa
bà tôi về trong giấc mơ những gã cua đồng sùi bọt mép
ngóng hạt lúa phù sa rụng vào hư ảo...
Và nhành lúa tong teo nép mình dưới khói
tôi nhìn khói vỡ trời xanh
nghe gió khóc trên bờ môi mằn mặn
tự mình ám ảnh tiếng những gã cua đồng hát rong