Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 29/03/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Có một dòng sông để thương để nhớ

G

iữa cái thị xã gió nắng có thể xếp vào nơi khắc nghiệt bậc nhất của miền Trung này bỗng dưng tạo hóa ban cho một dòng sông chảy vắt qua. Sông Hiếu của quê tôi như một dải lụa đào làm duyên thêm cho một vùng đất, tưới tắm cho bao số phận của đời người. 

Mỗi dòng sông cũng như mỗi đời người, đều có gốc gác, cội nguồn, cả tình yêu và nỗi nhớ đan cài. Sông Hiếu không rộng dài như bao dòng sông nổi tiếng, nhưng là ân tứ của thiên nhiên cho mảnh đất này, để rồi một ngày nào đó ta quay về bỗng thấy yêu thêm dòng sông ký ức của tuổi thơ chảy muôn đời qua bao tháng năm trĩu nặng ân tình.

 Sông Hiếu là hợp nguồn của nhiều con suối đầu nguồn ở Cam Lộ, nơi đường phân thuỷ của những núi đồi giáp với Đakrông. Bên kia đường phân thuỷ, nước chảy ngược xuống sông Đakrông, chảy về Thạch Hãn. Bên này suối nước đổ về hình thành nên sông Hiếu chảy về Cam Lộ, qua Đông Hà, ngày xưa đoạn qua nơi này còn được gọi là Điếu Giang (theo "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn, bởi nó chảy qua làng Điếu Ngao, nay địa danh này là phường 2, thị xã Đông Hà). Từ đây sông Hiếu chảy xuôi về Gia Độ, Triệu Phong thì hợp lưu với sông Thạch Hãn rồi chảy ra Cửa Việt.

 Nếu nói về sông Hiếu thì có thể phải viết cả cuốn sách mới chuyển tải được phần nào, bởi con sông nhỏ nhưng đã oằn mình gánh trên nó bao biến thiên của lịch sử. Phía thượng nguồn sông ngày xưa có một cái chợ rất nổi tiếng là chợ Phiên - Cam Lộ, từng là nơi diễn ra giao thương lớn của người Việt khắp nơi theo sông Hiếu mà lên với cư dân trong vùng, mở rộng lên tới đất nước Triệu Voi (Lào). Thời chiến tranh, nơi đây có những cứ điểm quan trọng, xảy ra nhiều trận đánh lớn đi vào lịch sử, mà cao điểm 544 là nơi đối phương chọn làm trung tâm xử lý tư liệu của "Con mắt thần" hàng rào điện tử Mc.Namara. Còn hạ nguồn sông là nơi từng xảy ra trận thuỷ chiến được gọi là trận "Bạch Đằng Giang trên sông Hiếu" vừa tròn 40 năm về trước.

 Dòng sông Hiếu là chứng nhân lịch sử bi hùng của một vùng đất đã bị tàn phá hơn 200%, như lời của một phóng viên phương Tây khi đến Đông Hà sau ngày thị xã này được giải phóng. Nhưng từ trong thẳm sâu, sông Hiếu còn là nơi nuôi dưỡng, tắm mát cho bao tâm hồn, mà nhà thơ Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ ra đi từ mảnh làng bên dòng sông này. Khi đã trở thành nhà thơ lớn của dân tộc, trong sâu thẳm nhà thơ vẫn mãi thương nhớ con sông quê, vùng đất quê nghèo khó với "những đồi sim không đủ quả nuôi người"... 

Nhà tôi không ở gần sông, nhưng những năm tháng tuổi thơ, ngôi trường tiểu học của tôi lại nằm bên sông Hiếu. Đấy là những năm sau Hiệp định Paris -1973, tôi được trở lại đi học ở vùng giải phóng. Trường tiểu học thị xã được xây dựng tạm ở Tiểu khu 3, hồi ấy còn gọi là làng Đông Hà (nay là Phường 3, Đông Hà). Ban đầu lớp học của chúng tôi học trong một ngôi nhà dân đã đi di tản, rồi mới chuyển ra ngôi trường được xây dựng sau đó ít lâu. Trường hướng mặt ra sông, cách một con đường nhỏ, chỉ mấy bước là có thể ra được bến sông nghịch nước. Những ngày gió Tây Nam thổi mạnh, trời nóng bức, đi học về chúng tôi thường rủ nhau ra bờ sông, cả con trai, con gái cởi áo quần nhảy ùm xuống tắm. Hồi đó quá hồn nhiên nên chúng tôi chẳng biết ngượng là gì. Sau đó ít lâu vì có người chết đuối trên sông nên nhà trường cấm không cho chúng tôi tắm sông nữa, vậy mà có đứa vẫn lén xuống sông tắm, bị thầy phạt đòn vẫn không chừa.

Người thầy đầu tiên của tôi ở vùng mới giải phóng cũng rất đặc biệt- thầy Nguyễn Văn Sự. Học xong tú tài, không có sự chọn lựa nào khác, thầy phải đi học trường sĩ quan Thủ Đức của chế độ cũ. Dạo đó về thăm nhà năm 1972, thầy bị kẹt lại sau giải phóng, còn gia đình thầy thì đã di tản vào các tỉnh phía Nam. Thầy được ngành giáo dục trưng dụng dạy học cho chúng tôi khi vùng giải phóng còn thiếu các thầy cô giáo. Thầy rất hiền lành, buổi đầu tiên lên lớp thầy bảo chúng tôi đừng gọi thầy là thầy mà gọi chú như ở nhà cũng được. Thầy dạy học theo chương trình sách giáo khoa mới rất nghiêm túc và thương học trò như các em của thầy, vì hồi đó thầy còn trẻ và chưa có gia đình. Quê thầy ở Gio Linh, một mảnh đất nằm ở bờ bắc sông Hiếu.

 Năm ấy tôi học lại lớp hai, mặc dù trước đó tôi đã học xong lớp nhì Trường tiểu học Trung Chỉ của chương trình giáo dục miền Nam. Có lẽ những bài thơ của các nhà thơ cách mạng chúng tôi cũng bắt đầu được học từ đây. Tôi nhớ nhất là bài thơ "Nhớ con sông quê hương" của Tế Hanh. Bài thơ là ký ức, là kỷ niệm của nhà thơ về con sông quê hương, có lẽ là sông Trà Khúc thì phải, nhưng không hiểu sao tôi cứ ngỡ như viết cho dòng sông quê mình: "Quê hương tôi có con sông xanh biếc/Nước gương trong soi tóc những hàng tre/Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè/ Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng"...Ừ, thì dòng sông quê mình cũng có luỹ tre soi bóng, có nước biếc trong xanh, có thuyền ai đó nhẹ lướt buông câu...nhưng có lẽ chỉ nhà thơ mới có thể nói lên tình cảm đối với con sông quê hương của mình với nỗi nhớ vời vợi, thao thiết đến nao lòng. Tế Hanh cũng là nhà thơ có nhiều bài thơ, câu thơ rất hay viết về vùng giới tuyến mà sau này làm chúng tôi nhớ mãi: "Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị/ Tận chân trời mây núi có chia đâu"...

 Chúng tôi học với thầy Sự đâu được hai năm lớp hai, lớp ba thì giải phóng miền Nam. Hồi đó thầy tìm lại được gia đình và đưa cả nhà về quê. Tình cờ hôm thầy đưa gia đình từ Đà Nẵng về, đang nghỉ lại ở bên đường thì gặp tôi. Tôi lễ phép mời thầy và gia đình vào nhà uống nước. Trong đôi triêng gióng, hành trang ít ỏi người di tản của cha mẹ thầy trở về còn có cả ảnh thờ của thầy. Thì ra khi thầy về tìm gia đình để đi di tản, bị kẹt lại thì gia đình thầy đã vào Đà Nẵng.

Cứ nghĩ thầy đã mất nên gia đình lập bàn thờ để "thờ" cho thầy trong suốt ba năm trời. Từ dạo ấy thầy không trở lại trường nữa và bao nhiêu năm trôi qua tôi vẫn bặt tin thầy.

 Người thầy kế tiếp của chúng tôi là thầy Trương Quang Thanh, dạy chúng tôi hai năm lớp tư, lớp năm cho đến khi chúng tôi chuyển về học ở trường trung tâm thị xã. Thầy Thanh người làng Mai Xá, cũng là một làng quê bên dòng sông Hiếu. Thầy có dáng người dong dỏng cao, mắt sáng, nước da trắng, tác phong rất lanh lẹ. Những bài giảng của thầy thật sôi động, nhất là môn lịch sử, được đan cài vào nhiều câu chuyện đánh giặc giữ nước rất bi hùng ở quê thầy, nghe tưởng như thầy là người trong cuộc vậy.

 Ngoài giờ học chính khóa, hồi đó tuần nào chúng tôi cũng có buổi đi lao động xã hội chủ nghĩa. Hình thức lao động của lớp tôi hồi đó chủ yếu là lên những quả đồi bát úp ở phía đầu nguồn sông Hiếu để bứt lá cây đưa về làm phân xanh. Mỗi lần đi lao động là mỗi lần chúng tôi được tha hồ chạy nhảy trên bạt ngàn đồi núi, thích nhất là được hái sim mua. Mà hồi đó không hiểu sao những đồi sim trái chín nhiều đến thế. Chúng tôi đua nhau hái, ăn thoả thích đến tím cả môi, xong còn hái dành bỏ vào mũ, vào túi quần áo mang về nhà ăn tiếp, hay cho bọn nhỏ trong xóm. Cuối buổi lao động, mỗi đứa chúng tôi ôm một bó lá cây chất đầy lên chiếc xe bò hò reo đẩy chạy về. Phía sau trường, thầy Thanh đã cho một tốp bạn lấy đá quây thành một vòng tròn, chúng tôi xếp từng bó lá vào giữa để cho thời gian hoai mục, trở thành nguồn phân xanh ủng hộ cho hợp tác xã nông nghiệp bón ruộng. Có lẽ hình thức lao động hồi đó của chúng tôi chủ yếu để rèn luyện tinh thần là chính, chứ hiệu quả đem lại thì chẳng được là bao. 

Có một điều thú vị là sau khi về học cấp hai ở thị xã, rồi lên cấp ba, tôi gặp lại thầy Trương Quang Thanh, cũng là thầy dạy chúng tôi ở bậc học cấp ba. Thì ra trong những năm đó thầy đi học tiếp trường Đại học Sư phạm Huế, trở về dạy lại chúng tôi. Bây giờ thầy vẫn đang dạy ở trường THPT Đông Hà và tôi luôn biết ơn thầy, là người thầy đã dạy suốt hai cấp học. Hơn thế, chính thầy đã động viên khích lệ tôi rất nhiều trong học tập và định hướng nghề nghiệp cho tôi khi vào đời.

 Bạn bè tôi cùng học ở ngôi trường bên sông Hiếu bây giờ mỗi đứa trôi dạt mỗi phương trời, bao nhiêu đứa là bấy nhiêu số phận. Đứa bây giờ tảo tần ngoài chợ, đứa chạy xe ôm, con cái đầy đàn, nhọc nhằn trong gánh nặng mưu sinh, đứa thành công chức, cũng có đứa đã công thành danh toại...

 Tôi nhớ Hoàng Việt Hùng, bạn cùng học phổ thông ngày trước, sau đó vào Đại học Tổng hợp Huế cũng học chung lớp. Học giỏi nên một năm sau Việt Hùng được trường chọn qua Liên Xô du học. Biền biệt hơn hai mươi năm ở Đông Âu, bất ngờ mới đây Hùng đường đột trở về. Câu hỏi của bạn bè rằng sao bây giờ mới về làm Hùng bối rối. Mà thôi, mỗi người có một nỗi niềm riêng phong kín, nhắc chi để thêm buồn. Quê hương, đi xa ai mà không nhớ, nhưng về thăm nhà mấy hôm, Việt Hùng lại đi, trở qua bên ấy - ở Kiép, Ucraina để lập nghiệp, bởi Hùng không tìm được việc làm phù hợp ở cái thị xã nhỏ bé này.

Nhà Việt Hùng ở làng hoa An Lạc, bên dòng sông Hiếu trong xanh. Giờ đây trở về, Hùng nuối tiếc mãi một con đường làng ven sông rợp bóng tre xanh, vẫn hoài nhớ những buổi trưa hè gió Tây Nam quạt lửa, sau buổi học về nhảy ùm xuống sông trầm mình trong dòng nước mát; là hình ảnh cô thôn nữ mỗi trưa hè gánh đôi gánh tong tả đi về trên đường làng với nụ cười tươi vui sau mỗi phiên chợ...Bây giờ tất cả chỉ còn là ký ức, vì thị xã trên đường phát triển, có một cái gì đó thuộc về ngày đã qua sẽ mất đi. Những khóm tre làng đã nhường chỗ cho những con đường lớn chạy băng qua thị xã với tấp nập người và xe cộ ngược xuôi. Cô thôn nữ ngày nào giờ cũng má phấn môi son đứng quầy tạp hoá. Và, cả một thời trai trẻ của chúng tôi cũng đã đi qua lúc nào không hay khi đứa nào cũng phải tất bật với công việc của một cư dân thị xã, nếu không muốn bỏ mình lại ở phía sau.

Cuộc sống cứ như một guồng quay mà ai cũng phải lao vào. Từng ngày qua người ta tất bật với bao gánh nặng trong cuộc mưu sinh cơm áo gạo tiền. Ký ức của tôi chỉ là chấm nhạt nhòa hoang hoải của ngày đã qua. Bạn bè tôi vì gánh nặng mưu sinh mà phiêu dạt khắp bốn phương trời. Còn lại tôi, người tìm về và ở lại với cố xứ, mỗi ngày qua là thêm một nỗi buồn thương tiếc nuối. Trên con đường mỗi ngày tôi vẫn đi qua, những nhành phượng đỏ, điệp vàng khoe sắc thắm; những chú ve rỉ rắc thả giọt sầu vào thinh không, còn gió, gió Tây Nam vẫn thổi miên man trong nắng hạ vàng.

Đêm mùa hè, ở thị xã nhỏ nhoi của tôi có một gương mặt khác. Khi bóng đêm sập xuống, người thị xã như đổ hết ra đôi bờ sông Hiếu để hóng gió. Đường Bà Triệu, đường Hoàng Diệu người xe đi lại như nêm. Có lẽ chuyện ăn uống ở nơi này chỉ là cái cớ để người ta thưởng thức gió từ bờ sông. Bờ sông bao nhiêu đêm hè nay gió vẫn thổi ào ạt, làm dịu đi cái nắng nôi như chảo lửa của thị xã giữa khúc ruột miền Trung này. Không kiêu sa, lộng lẫy, sông Hiếu vẫn âm thầm trôi xuôi với một nét duyên thầm.

 Có lúc ngồi nhìn con nước mải miết xuôi về Cửa Việt, bất chợt tôi nghĩ lẩn thẩn rằng nếu Đông Hà của mình không có con sông Hiếu chảy qua giữa lòng thị xã thì sao nhỉ ? Đất nước có nhiều dòng sông, nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ - ai đó đã viết như thế trong lời bình của một bộ phim. Không hoành tráng như sông Tiền, sông Hậu, không dữ dội gầm réo sục sôi như sông Mã, Thu Bồn, hay lặng lờ dùng dằng không chảy như sông Hương..., sông Hiếu quê tôi vẫn khiêm nhường, nép mình bên thị xã nhỏ hẹp, chuyên cần đưa nước trôi xuôi về với biển.

 Bây giờ mỗi khi có khúc mắc trong lòng, tôi thường tìm đến một quán nhỏ bên sông vắng, một mình âm thầm thả những cọng cỏ vàng xuống dòng nước trong xanh để rồi gặm nhấm những nỗi buồn riêng mang, để nuối tiếc cho ký ức một thời đã đi qua không bao giờ trở lại. "Quê hương ai cũng có một dòng sông êm đềm...". 

  
                                                                                                M.T

 

ot%�at����ext-align:justify;text-indent:28.05pt'>Bất lực trước dòng sông Hiếu, để trả thù con đập ngăn sông, hằng ngày không biết bao lần Mỹ cho máy bay bay từ Cửa Việt lên bỏ bom vào đập Cồn Hạ. Có sứt mẻ, nhưng do cọc tre cắm chân sâu vào lòng sông, nên con đập vẫn sừng sững đứng đó như cái gai, như mũi chông chọc vào mắt, vào tim giặc. Sau trận tàu và M113 thua ở Đại Bộ, ban chỉ huy tiểu đoàn 47 nhận định: thua ở Đại Bộ hôm nay, ngày mai rất có thể địch sẽ đánh lên Kỳ Trúc.

Trần Văn Thà gặp trực tiếp anh Nguyễn Sanh:

- Chúng tôi dự đoán ngày mai địch sẽ đánh lên Kỳ Trúc, chỗ anh đang ở đó.

Anh Nguyễn Sanh nói:

- Rất có thể như vậy, các anh tính sao bây giờ?

Đáp lại câu hỏi ấy, ngay 4 giờ chiều hôm đó, Trần Văn Thà gọi Nguyễn Lộc tới, giao cho anh một trung đội đang đóng ở làng Kênh, lập tức hành quân ngay đến Kỳ Trúc. Vừa đến nơi, Lộc cho ngay trung đội đào hầm hố chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến đấu ngày mai như ban chỉ huy đã dự báo, và tin tưởng điều một trung đội lên đây.

Không sai, sáng hôm sau địch cho một đại đội nguỵ tấn công vào Kỳ Trúc.

Trung đội Nguyễn Lộc đã giăng bẩy ở đây. Khi đại đội nguỵ lọt vào bẩy, Lộc lệnh phát hoả. Lính nguỵ bị đánh bất ngờ, chết một đống ngay từ loạt đạn đầu. Sợ quá, lính nguỵ không dám tiến thêm một bước, cứ thế quay đầu chạy thẳng về Cửa Việt.

Máy bay Mỹ bay lên nhào lộn, thả bom, rồi quay về. Trung đội Nguyễn Lộc đã chiến thắng nhanh chóng và không một ai sứt chân sứt tay. Không ngờ, khi mình đã bày thế trận, đã thắng lợi giòn giã gọn gàng như vậy.

Trần Văn Thà tiếp tục triển khai quân mai phục. Nguyễn Lộc tiếp tục ở Kỳ Trúc, Như Sa dẫn một đại đội về Lâm Xuân Tây, đại đội 1 của Lê Hữu Trác sau khi làm chủ được chi khu quân sự Gio Linh, bây giờ lại được Trần Văn Thà phân công về chốt quân ở Mai Xá.

Vừa bước chân về Mai Xá, đại đội 1 đã lập công ngay. Một chiếc trực thăng phành phạch lượn vòng do thám như đang tìm kiếm một dấu vết nghi ngờ. Nó bay thấp, chủ quan, thấy ngon quá, Cao Lương Bằng lấy thế cho khẩu AK của mình. Khi chiếc trực thăng nằm gọn vào đầu ruồi súng, anh bóp cò, đúng chỗ hiểm, chiếc máy bay bốc cháy, lao ra khỏi tầm mắt. Không biết số phận tên phi công ra sao, nhưng lính Lê Hữu Trác không hề bị phản công lại.

Tiếng súng của Cao Lương Bằng lập một chiến công mang tính chất mở đầu: AK của chúng ta cũng có đủ khả năng bắn rơi trực thăng địch. Bằng phổ biến kinh nghiệm cho đồng đội, hầu như ai cũng thèm có một chiến công như Bằng.

Đập Cồn Hạ tạo nên cơn lốc tham gia kháng chiến của nhân dân Gio Cam. Tiếp sau đó là chiến thắng Đại Bộ, Kỳ Trúc, và hôm nay trực thăng cháy ngay trên đầu nhân dân Mai Xá. Cả làng Mai Xá xôn xao.

Đại đội 1 về Mai Xá, bắt tay ngay vào thế trận phòng ngự. Các chiến sĩ không nghĩ ngơi, bắt tay ngay vào đào hầm hố, xin tre của nhân dân làm nắp hầm. Vừa cảm phục, vừa thương các anh như con, một bà mẹ Mai Xá đã bảo các anh:

- Các con dỡ nhà của mẹ ra lấy tre lấy gỗ làm hầm.

Anh em bộ đội lắc đầu:

- Dạ, không được ạ.

Mẹ hỏi:

- Vì sao không được?

- Đây là tài sản của mẹ, kỷ luật của chúng con là không được đụng đến cái kim, sợi chỉ của nhân dân ạ.

Mẹ Mai Xá nói:

- Mạng sống của các con, các con còn không lo. Nhà cửa của mẹ thì đáng gì máu xương của các con. Cha mẹ các con đẻ các con ra, cho các con vào bộ đội. Tới Mai Xá này thì phần của mẹ là lo cho các con. Việc lo ấy là hầm hố bảo đảm sự sống cho các con. Nên nhà mẹ đó, các con cứ phá xuống, lấy tre lấy gỗ làm hầm cho các con. Nếu còn vật liệu thì làm cho mẹ một căn hầm.

Mẹ tìm mọi cách bắt lính dỡ nhà mẹ làm hầm. Làm xong, anh em bảo làm cho mẹ, Mẹ đáp:

- Không có hầm, các con hy sinh vì không có hầm thì mẹ ân hận lắm. Còn mẹ, có hầm rồi đấy. Gọi thằng chỉ huy xuống đây lấy tre gỗ này mà làm hầm cho nó luôn.

Những bà mẹ Việt Nam là như thế. Phía sau các anh là bà mẹ, là nhân dân, chiến thắng là cái chắc.

Lính pháo tìm chỗ đặt súng, một người dân thấy các anh đang lúng túng, đến bảo:

- Các em muốn đánh tàu phải chọn chỗ gần mà đặt súng, ở xa bờ sao bắn trúng được.

Rồi người đàn ông ấy dẫn lính pháo đến một lòi đất ở một cái doi có địa thế đặt súng đẹp:

- Nơi này đáng đồng tiền bát gạo cho các em lắm.

108 ngày đêm tiểu đoàn 47 bám sát Cửa Việt, sông Hiếu, bắn cháy tất cả 33 tàu, thì chính nơi doi đất làng Mai Xá người nông dân dẫn đến, các anh đã bắn 5 tàu. Dân ta quen đánh giặc cả nghìn năm nay, nên trong máu ai cũng có một phẩm chất quân sự. Hèn chi cuộc kháng chiến chống Mỹ trên đất này, có người nói: “Ra ngõ gặp anh hùng” là vậy.

Chăm sóc đại đội 1 ở Mai Xá có cả một tiểu đội nữ nấu ăn cho lính. Nhân dân có gì, từ củ khoai đến bát gạo, từ bơ đỗ đến túi lạc đều giao cho các cô nấu ăn. Đến bữa, lính ở hầm nào cứ ở hầm nấy, các cô gánh cơm nóng canh ngọt đến tận nơi cho từng người:

- Anh bộ đội ơi, em đem cơm đến cho anh đây nè. Em gắng nấu cơm ngon, anh gắng ăn khoẻ để đánh giặc giỏi nghe anh.

Những cô gái ấy đến bây giờ ngồi với nhau, lính ta vẫn nhớ từng người: Lê Thị Ngậy, tiểu đội trưởng; Lê Thị Kết, Lê Thị Hồng, Hiền, Bùi Thị Mai, Trương Thị Nhỏ (An), Lê Thị Hằng, Nguyễn Thị Lan, Trương Thị Nhỏ (học sinh), Nguyễn Thị Thiện (học sinh), Trần Thị Quế (học sinh) và Trần Thị Tâm (học sinh)...

Đến Thiện, Tâm, Quế, Nhỏ (Bình) đang là học sinh, vì chiến tranh phải chững lại, cũng tham gia vào tiểu đội nữ, đủ thấy lòng dân Mai Xá từ già đến trẻ ai cũng một lòng ủng hộ bộ đội. Hèn gì bộ đội ta hăng hái đến thế.

Nhà báo Phương Nam đã làm một bài thơ tặng tiểu đội nữ Mai Xá:

Ôi em Mai Xá, đá gan liền

Tàn bạo nào lay nổi nữ xóm thôn

Mỗi trận giặc về, em đứng đó

Bao nhiêu máu đỏ, bấy anh hùng.

 

Em đó ư? Ơi Lam Giang

Ôi dòng sông nhỏ rất hiên ngang

Tuyến đầu em đứng, thuyền em chống

Tay lái em đó, đường vững vàng

 

Ta nghe cuồn cuộn dòng Cửa Việt

Nhận chìm bao tàu giặc đáy sông

Gio Mai, Gio Hà, Lam Giang oanh liệt

Luỹ tre xanh dàn thế trận Bạch Đằng

 

Bát ngát dòng sông những chiến công

Bao nổi chìm triều dâng thác mạnh

Hiếu Giang ơi! Tắm mát dạ anh hùng.

Ngày 28 tháng 2 năm 1968 Mỹ tập trung hoả lực, chúng dội đạn bom xuống suốt từ sáng đến tối, không ngớt tiếng nổ và lửa khói, tất cả tập trung nện vào Mai Xá, Vinh Quang Thượng.

Nhận định của ban chỉ huy tiểu đoàn 47 và lãnh đạo Gio Cam là: Nhất định ngày mai Mỹ sẽ tấn công Mai Xá. Chúng dùng bom đạn thế này đúng là cách dọn đường của một kẻ giàu và hiếu chiến. Phải tiêu diệt hết để ngày mai chúng tới không gặp một trở ngại nào.

Chúng chẳng từng tuyên bố: mười tấn bom diệt được một đối tượng, như thế là thắng lợi rồi.

Xác định được âm mưu địch, ban chỉ huy tiểu đoàn 47 tổ chức lại đội ngũ:

- Tăng cường vũ khí cho đại đội 1 đang đứng chân ở Mai Xá: Thêm 1 B41, 1 DKZ.

- Ở địa thế Mai Xá này, với cách tấn công của Mỹ lâu nay, chắc chắn hướng chúng di chuyển quân là từ phía bờ sông vào làng.

- Chắc chắn dưới sông chúng sẽ dùng xe lội nước cho cơ động. Và trên cạn chắc chắn chúng sẽ dùng xe bọc thép vừa để đỡ đạn cho bộ binh vừa đe doạ đối phương.

Ban chỉ huy đi thăm trận địa, Lâm nhắc anh em, đối mặt với vũ khí Mỹ phải lo hầm hố cho chắc chắn.

N.Q.H

 

Minh Tứ
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 174 tháng 03/2009

Mới nhất

Bộ từ điển bỏ lại giữa rừng sâu

7 Giờ trước

Sau hiệp định Pari, 27/1/1973, chiến tranh tạm dừng, đại đội tôi đóng quân giữa bãi cát Lệ Xuyên, huyện

Đi tìm cỏ

7 Giờ trước

Nhiều lúc ngồi thẫn thờ nhìn đàn trâu bò gặm cỏ dọc triền đê chợt giật mình: Cỏ quê

Chị ấy…

7 Giờ trước

Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế tổ chức một chuyến đi thực tế dài ngày tại Tổng Công

Pa Ling mùa mưa

7 Giờ trước

Tháng 11, dưới cơn mưa rừng tầm tã, chúng tôi tìm về thôn Pa Ling, xã A Vao, huyện Đakrông,

Chiều không tắt nắng

27/03/2024 lúc 16:33

Truyện ngắn của THỦY VI

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

30/03

25° - 27°

Mưa

31/03

24° - 26°

Mưa

01/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground