G |
iờ đây, khi rời những con sông hiền hòa trong vắt ở phía Bắc Quảng Trị để vào đất thành kinh thơ mộng, chúng ta sẽ bắt gặp con sông cuối cùng ở phía Nam, dòng sông Ô Lâu nằm ở ranh giới hai tỉnh.
Ô Lâu, nghe gợi đấy chứ nhỉ? Với tôi không hiểu sao cái thanh âm Chiêm Thành cổ kính kia nó không chỉ gợi mà xao xuyến đến chạnh lòng. Trầm tích vùng đất phên dậu một thời Châu Ô, Châu Rí đó chăng? Xưa trong những huyền tích bà kể, nghe đâu cứ ba mơi năm một lần biển xanh hóa thành ruộng dâu, dân gian gọi bể dâu. Ba mươi năm một lần... thế mà thời tôi đang sống đây, cái gọi là bể dâu nó biến hoá muôn hình vạn trạng trong mỗi phận đời, phận người gắn kết với bao danh phận dòng sông biết mấy lở bồi qua cùng năm tháng. Cũng như những con sông lừng danh khác ở Quảng Trị trong lịch sử dựng nước và giữ nước như Hiền Lương, Thạch Hãn,... Ô Lâu mang vác một danh phận có thể nói là dằng dặc đời sông, sóng chìm sóng nổi. Đất nước bao đời gươm giáo chiến tranh nên còn vang vọng đâu đây trên những khúc sông cả giọt máu, lời yêu, bến nước, trăng thề và cả câu hò, điệu lý...
***
Ngày nay chúng ta vượt qua sông Ô Lâu nhờ một chiếc cầu, khác với ngày xưa khách bộ hành trên đường thiên lý qua sông bằng chiếc thuyền nan. Cứ mỗi lần qua cầu Mỹ Chánh như thế, tâm trí tôi lại cuồng điên lên vì nhớ đến người anh khả kính thuở thiếu thời, nhớ cả hoa thơm cỏ dại dọc con sông này. Anh tên là Sơn Hồng Đức, sinh ra và lớn lên ở chợ Mỹ Chánh, bên bờ
Một hôm xem phim ở rạp Hoàn Mỹ về, buồn bã quá, anh Đức rủ tôi ra quê leo núi, thực hiện một cuộc khảo sát khám phá chinh phục những ngọn núi, nơi phát tích ra dòng Ô Lâu. Đêm ấy ở nhà tự tay anh hì hục nấu nướng. Xôi đùm, thịt kho, bánh trái nhồi nhét đầy một ba lô và túi xách kia tài liệu, bản đồ, lều bạt, sách truyện. Sáng ra hóa trang thế nào cũng không thành hai kẻ sơn tràng để leo núi. Thì cũng là hai kẻ mộng du thôi, làm thế nào leo lên đợc ngọn nguồn nơi phát tích ra dòng Ô Lâu? Ngồi xổm ở lưng chừng núi, trải tấm bản đồ thời thuộc Pháp ra, anh chỉ trỏ giải thích. Ngọn nguồn Ô Lâu là một con sông của quần sơn Kovaladut, nhòm lên chỉ thấy rừng dày nhưng núi thì không cao lắm. Độ cao ghi chú trong bản đồ chừng sáu trăm mét trong khi Thạch Hãn cao gần gấp đôi. Ở đó tứ bề có nhiều con sông đổ về như Rào Trang chảy hướng Tây Bắc; trong khi khe Toan, khe Ba Lá, La Sam, Đakrông đổ nước về phía biên giới Việt Lào. Lưu vực sông Ô Lâu cũng không rộng lắm, chừng sáu trăm cây số vuông trong khi Thạch Hãn rộng gấp ba lần. Vì vậy ngay ở đầu nguồn, dòng sông Ô Lâu thong thả chảy giữa đồi 652 và đồi Coc-bai, thẳng hướng Tây Bắc. Đứng ở khúc sông này quan sát, đập vào mắt chúng tôi cảnh tợng một dòng sông nước trắng xóa chảy mải miết qua ghềnh, qua đá - những tảng đá rêu phong trơ gan cùng tuế nguyệt. Chúng tôi hạ trại dùng bữa trưa và trong giấc ngủ chập chờn đã nghe vọng lên một âm hởng bí ẩn từ đáy dòng sông. Và mây, mây trắng từng mảng dày sà xuống dòng sông để gió lùa mây lên ngàn thành mây đầu non, từng mảng, từng đàn
Bác Đóa cùng anh em tôi kịp dùng bữa tối trớc lúc trăng lên. Quả là trăng treo đầu non, nó chín mọng
- Này Th., răng ta thấy chú mi thích toàn chuyện nhảm nhí. Toàn là phim Tàu, chởng Hồng Kông, Đài Loan và cả phim tình ái Mỹ nữa, thứ chi chú mi cũng nhồi nhét vô trong đầu. Ra khỏi mấy rạp phim lại gối lên đầu toàn những thứ truyện tào lao nữa chơ... Rặt một thứ Kim Dung, Anh hùng xạ điệu, rồi đây không biết làm nổi cái trò trống gì. Răng không thấy chú mi học hành môn sử nớc Việt?...
Tôi buột miệng chống chế:
- Thì cụ S. sử địa khó tính nhất ở Huế đã phê giỏi hai môn trong học bạ tui rồi, anh còn đòi thêm chi cho cao.
Anh Đức phẩy tay:
- Nỏ thấm bổ vô mô, học ra rứa là học vẹt hết!
Tôi vùng ngồi dậy, hai tay bó gối, quay sang hỏi vặn:
- Rứa thì dạ tha ông giáo s, nhân chuyến đi chinh phục quần sơn Kovaladut thất bại thê thảm này, giáo s giải thích cho em hai chữ Tổ quốc?
- Tổ quốc ấy à, để xem. Tổ quốc là lịch sử, là núi sông, làng mạc, đồng bào, không phải là cái gì trừu tợng cả. Tổ quốc nó cụ thể trên tấm bản đồ chúng ta mang theo đây chẳng hạn. Có điều chán chú mi quá, lên đợc lng chừng núi rồi mà không có sức để leo. Bảo rằng yêu sông, yêu suối cũng chỉ yêu mỗi những khúc sông nớc trôi lững lờ; lại còn vòi vĩnh cho được cả thuyền trôi xuôi theo dòng nữa ch! Chao ôi là Tổ quốc, cứ sinh ra những đấng nam nhi
Bác Đóa đập vào đùi cái đét rồi còn buột miệng tán thởng rằng,“Chí phải" !!!. Tôi đỏ mặt vì hơi bị quê, định tiếp tục chống chế thì anh Đức đã cắt ngang:
- Còn nữa, hồn Tổ quốc tuy có phần trừu tợng nhng nó ẩn chứa trong tâm thức mọi ngời, đồng hóa với lơng tâm mỗi con ngời. Phải vậy không bác Đóa?
Bác Đóa gật gù, ra chiều nghĩ ngợi lắm. Cái thời giáp ranh Nam Bắc hai miền, ở Huế tôi thờng xuyên đợc những vị giáo s gàn dạy cho những bài học lịch sử “bổ báng” nh thế, vậy mà nhớ mãi. Đêm ấy, anh Đức còn cao hứng đàm đạo cả chuyện triết học khi tôi đặt ra cho anh câu hỏi:
-Vậy thì lịch sử cụ thể là gì?
Anh đã giải thích tơng đối cụ thể. Đại ý là lịch sử của mỗi vùng đất, của mỗi quốc gia dân tộc, của cả nhân loại tờ tợ
ở trờng tôi có học sơ lợc về cuộc cách mạng t sản Pháp, biết đợc đôi điều về các chiến sĩ công xã Pari mà ông Mác vừa ca ngợi. Thế nhng khi hỏi anh Đức cụ thể về ông C. Mác bên trời Âu phe Xã hội chủ nghĩa và đặc biệt gần gũi là cụ Hồ Chí Minh ngoài Bắc thì ngời đa đò dọc là bác Đóa ra lệnh im, đò đang qua vực, ngoặt hớng nguy hiểm. Tôi ngầm hiểu ý và hơi thất vọng nhng rồi anh Đức đã kịp động viên. Trên dòng sông trăng anh hát cho tôi nghe nào là “Lời ngời ra đi” nào là “Sơn nữ ca”: Sơn nữ ơi! Đời ta
Yêu biết mấy con ngời và sông núi thợng nguồn Ô Lâu nhng bấy giờ linh cảm cho tôi biết khó mà thực hiện lại đợc một lần thứ hai
***
Hình
Anh Đức cắt đặt, dặn dò anh On chở tôi đi thăm tháp hạ lu dòng sông một mình, còn thì anh ở lại vì còn một công việc chuyên môn quan trọng là đo độ mặn nớc sông. Từ đây anh On cắt dọc cắt ngang, chở tôi đến những nơi cần đến, gần
Điều rất dễ hiểu là sau một ngày cỡi ngựa xem hoa (mà quả là chiếc xe hon da 67 của anh On là con ngựa chiến thật) nh thế, tôi không khỏi thắc mắc ông anh là giáo s Đức. Anh ném cho tôi bộ tiểu thuyết “Những kẻ khốn nạn” (bản dịch cũ ở miền Nam) bảo đọc đi rồi biết công xã, biết Mác, biết Chủ nghĩa xã hội; Còn anh thì hình nh tiếp tục đi đo độ mặn ở phía cuối nguồn. Một ngày đêm tôi mới đọc xong bộ sách cũng là lúc anh Đức ta phờ phạc lê bớc chân về nhà. Đúng là có sự cố tinh thần gì ghê gớm đối với anh ấy rồi. Nhng tôi còn ấm ức mãi về chuyện ông Các Mác. Anh Đức miễn cỡng giải thích:
- Mác cũng giống
Không rõ cái t duy triết học con cóc trong đầu tôi nó nhảy thế nào mà buột miệng hỏi anh Đức về lợi ích kinh tế cụ thể của dòng sông. Anh ném cho tôi cuốn sổ tay ghi chép chi chít chữ rồi ra cửa lao đi
Điều rất dễ nhận thấy về lợi ích kinh tế của dòng Ô Lâu bởi trớc hết nó là tác nhân chính tạo ra vùng đồng bằng, vựa lúa của hai huyện Hải Lăng và Phong Điền. Thớc đo đặt ở cầu Phớc Tích cách quốc lộ một chừng hai cây số cho thấy, mực nớc và lu lợng cao nhất vào tháng mời. Độ mặn cao nhất vào tháng ba, tháng đầu mùa nắng gắt. Mỗi năm Ô Lâu tống ra biển chừng năm trăm triệu mét khối nớc, và trong mỗi khối nớc có khoảng tám trăm gram phù ra bồi đắp cho đồng bằng. Một phần hiện nay là chân ruộng cao, phần nữa là đồng thấp nằm ở phía cửa sông chảy ra phá Tam Giang. ở đây, nhiều chỗ đất đứng cha vững chân, nghĩa là lớp phù sa mới trên mặt cha kịp cấu kết với lớp dới. Nhiều năm nớc nổi quá cao làm bật gốc lớp phù sa này. Đất và lúa nổi hẳn lên và trôi ra phá Tam Giang.
Trớc khi vào Huế, anh Đức có một cử chỉ chiều chuộng
- Sao chúng ta không xây dựng một cái gì ở đây? Một vờn hoa, tợng đài hay một tấm bia tiến sĩ Bùi Dục Tài chẳng hạn ?..
Tôi trả lời anh Đức theo kiểu triết học con cóc:
- Hoa thì đợc vì hoa gieo lời vào Đất. Còn Nớc, nớc thì thôi...
- Sao Nớc thì thôi ?...Chú mi nghĩ về Đất-Nớc thế à ?...Tôi khoát vòng tay
- Thì nớc đang trả ý về nguồn kia kìa , đâu có ngợc lên non đợc nữa !..
Anh em chúng tôi cời ha hả, quên cả chiều hạ đang tía vàng chuyển sang mầu tím biếc.
* * *
Trời ạ! Chiến tranh đồng nghĩa với tao loạn và tất yếu là chia lìa. Đầu năm bảy hai, từ c xá Nam Giao anh Đức dẫn độ hai ngời nữa lên chùa trên núi tìm tôi. Không ai khác đó là bác Đoá ngời lái đò dọc đầu nguồn sông Ô Lâu và cô nữ sinh hàng xóm tên Sơng, ngời thơng của anh Đức. Cuộc gặp gỡ trong im ắng, chẳng nói đợc gì nhiều vì bác Đoá là ngời của tổ chức, hở là ra lệnh im. Thông điệp cuối cùng bác Đoá gửi lại cho tôi là thay mặt anh Đức chăm sóc Sơng những ngày vào Huế học trung học đệ nhị cấp. Còn anh Đức nghe đâu tổ chức đã thu xếp cho anh ra học tận ngoài Bắc. Huế- Sài gòn- Hà Nội, bao nhiêu năm nay vẫn còn xa...Huế- Sài gòn- Hà Nội...tôi đã hát lên thế vì quá sung sớng và bất ngờ nhưng bác Đoá cũng đã kịp ra lệnh im. Thế rồi mùa hè đỏ lửa năm ấy, ngời anh tinh thần của tôi cha kịp ra Bắc đã anh dũng hi sinh trong một trận đụng độ với lực lợng Thuỷ quân lục chiến ở đất Thấm phờng. Mẹ anh, ngời mẹ có chồng tập kết ra Bắc đa đến cho tôi cái tin não nùng này. Mẹ khóc tràn trề, no đủ trớc mặt tôi. Còn khi gặp Sơng thì mẹ chủ động nuốt nớc mắt vào trong; tơi cời, động viên "đứa con dâu hụt" chăm chỉ học hành. Tôi buộc nhập vai, cháy cả ruột gan, thế mà rồi cô nữ sinh Sơng kia vẫn biết. Trớc ngày tôi "lên xanh" một tháng, chị ấy đã có một hành động tuẩn tiết với người anh tinh thần của tôi là xuống tóc đi tu.
Bà tôi kể ba mơi năm một lần biển xanh hoá thành ruộng dâu quả là đúng. Để bây giờ đứng ở đâu, dới mầu xanh bất tận của cây lá, cái mầu xanh nhờng nh có cả tiếng sóng dòng sông Ô Lâu dìu dặt trong đó, tôi cứ mơ màng nhớ mấy câu ca dao tình sử :
Trăm năm nhiều lỗi hẹn hò
Cây đa bến cộ con đò khác đa
Cây đa bến cộ còn la
Con đò đã khác năm xa tê rồi !
Man mác một nỗi buồn sông. Không biết đâu là sự khúc mắc, lỗi hẹn trong lòng cô lái đò hay ni cô Sơng ? Nỏ biết răng mô là nỗi niềm bơ vơ trong các câu hò, điệu lý của những lu dân dọc hai bờ sông đi mở đất, mở ra cả vựa thóc mà vẫn miên man nỗi buồn xa xứ.
S..Un xét có nói :"Chẳng có gì đau đớn hơn sự hoài niệm". Riêng tôi thì không, vì có đau đớn thêm một lần đi nữa thì tôi cũng đã chép ra đây những kỷ niệm của ngời anh tinh thần là một trí thức ở đô thị miền
Kỷ niệm 30 năm ngày Giải phóng huyện Hải Lăng
3-2005
Y.T.