Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 06/05/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Mười năm và ba mươi năm

            1- Thấm thoát đã ba mươi năm đi qua, ba mươi năm kể từ ngày mùa xuân 1975, mùa xuân chiến thắng, cái mùa xuân “bao năm vẫn đợi chờ mà niềm vui cứ đến bất ngờ”. Khi ấy tôi mười tuổi, và tôi chưa đủ lớn khôn để hiểu tuổi thơ tôi đã may mắn ra khỏi cuộc chiến.

            Mười tuổi, chỉ bằng tuổi con gái tôi bây giờ

            Mười tuổi của con gái tôi bây giờ là chơi games nhoay nhoáy trên computer, khi bố bận bịu có thể vào mạng internet để check mail (kiểm tra thư điện tử) giúp cho bố. Mười tuổi cháu đã được đi chơi nhiều nơi chốn Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt, Hội An… đã đi tàu hỏa, máy bay,… cháu cũng chỉ là một đứa trẻ bình thường và tôi không hề có ý khoe về những gì con gái yêu của mình đã có được… Cái tuổi lên mười của con gái thức dậy trong tôi bao cảm thức trước cuộc đời, trước những trăn trở về cuộc sống, nhưng thẳm sâu trong ấy, mỗi ngày bình yên hôm nay đều mang đến những hạnh phúc giản dị, vẻ đẹp đôn hậu của cuộc đời mà không phải ai cũng dễ dàng nhận ra. Và những hồi ức bé thơ trong tôi khi nghĩ về tuổi lên mười của cha và con chợt bật ra khi một chiều ngồi coi tivi cùng con gái… Câu chuyện về chiến tranh với những thước phim đen trắng, loang loáng viết đạn lửa vút lên, nhoáng nhoàng âm thanh chát chúa… bỗng con bé hỏi hồn nhiên: Hồi xưa ba có thấy bom đạn không? Ôi con gái của tôi, mỗi ngày bình yên con sống hôm nay sẽ ý nghĩa biết bao nếu biết những chuyện xa xưa bây giờ kể lại…

            Con gái học lớp bốn, nhà cách trường chưa đầy một trăm mét mà ngày nào cũng chăm chỉ và chính xác như một cái đồng hồ đưa đón con đến lớp… Còn ngày xưa, cũng tuổi này bao đứa bé thời chiến đã đi vào câu thơ “mang mũ rơm đi học đường dài”. Đây là câu chuyện về những thế hệ học trò đất Bắc đến trường dưới bom đạn, lớp học, là căn hầm chữ A và những câu thơ của cậu bé Trần Đăng Khoa ngày nào vẫn như vương mùi khói bom: “Em nghe như Bác dạy lời/ Cháu ơi đừng có chời bời đâu xa/ Trồng rau, quét bếp, đuổi gà/ Thấy tàu bay Mỹ nhớ ra hầm ngồi…” (Góc sân và khoảng trời).

            2-Tôi sống ở miền Nam, không “mang mũ rơm đi học đường dài” nhưng ký ức tuổi thơ tôi hình như rất ít chỗ cho trò chơi mà ám ảnh nhiều hơn về bom đạn. Chừng như tôi biết chập chững đi thì những tiếng nổ đêm đêm đã ăn vào ký ức. Căn hầm đào ngay dưới giường nằm, đang ngủ rất yên lành bỗng mẹ tôi bật dậy ôm lấy tôi lăn vội xuống hầm khi nghe tiếng súng vang đâu đó. Rồi sáng mai ra tôi lại nghe người lớn kháo nhau: Hồi hôm “Cộng” Về. “Cộng về” chính là những du kích, bộ đội địa phương bám trụ ở những cánh rừng bên kia sông Hiếu, đêm đêm về tập kích chi khu quân sự ngay gần nhà tôi. Có khi cả một đại đội chủ lực về phối hợp với bộ đội địa phương đánh những trận ra trò, mẹ con tôi nằm im thin thít dưới hầm, miệng mẹ tôi lầm rầm khấn vái… Năm tôi lên sáu tuổi, quân giải phóng đánh mạnh trên chiến trường Quảng Trị, cả làng dắt díu nhau chạy tránh đạn bom. Pháo từ đâu câu đến giữa dòng người đang chạy, khi ấy cái cống thoát bên dưới lòng đường quốc lộ bỗng trở thành nơi trú ẩn. Bà nội tôi ngằn ngặt không thét ra hơi, chỉ chực chết ngộp, may sao pháo ngớt, người ta bò ra khỏi cống, tôi hớp hớp những giọt không khí… Ba rôi xa nhà, chỉ bà nội và mấy mẹ con dắt díu nhau chạy bộ từ Cam Lộ vào tận Huế, băng đồng mà đi, mệt đâu ngủ đấy, thằng em trai chưa đầy hai tháng tuổi của tôi mấy lần uống no nước khi mẹ tôi bế nó lội vượt ào qua những khe suối nước ngập sâu quá đầu mẹ… Đói đến đâu thì xin ăn ở đấy, rồi một hôm cái đôi chân thơ bé của tôi không đủ sức lon ton chạy theo bà theo mẹ trên cái đoạn trường lánh bom tránh đạn được nữa, bà nội tôi kiếm đâu đôi quang gánh ai vứt bỏ ở vệ đường rồi bỏ tôi vào một đầu thúng, đầu kia bỏ thêm hòn đá cho thăng bằng mà gánh tôi đi. (Giờ đây ai ngang qua vùng đất cát trắng ven quốc lộ 1A ngang huyện Hải Lăng sẽ thấy một tượng đài Đức Phật được dựng lên giữa sa ngàn cát trắng để cầu nguyện cho hàng trăm linh hồn dân lành vô tội đã nằm lại trên cát trắng này một mùa xuân 1972)… Rồi cả nhà cũng vào đến Huế, tiếp tục xiêu dạt vào Đà Nẵng. Trại tạm cư Hòa Khánh hỗn mang, ngập các sắc lính, đêm đêm thấp thỏm âu lo những tiếng nổ tập kích… Rồi lính tráng say rượu, thua bạc mở lựu đạn... nơm nớp và bất an. Những nếp hằn chiến tranh chạm khắc vào trí óc thơ dại của tôi. Thằng nhóc tôi mới sáu tuổi thì làm gì biết nghe nhạc Trịnh? Nhưng những mảnh ký ức giằng xé và ám ảnh ấy đủ cho tôi sau này lớn khôn, nhận biết chút ít về thân phận trần ai của kiếp người trong những ca khúc của Trịnh, thì khi ấy ký ức tuổi thơ như những hồi quang vọng về qua điệp trùng ngày tháng soi vào từng ca từ của Trịnh, không ầm ào tiếng binh đao mà nghe ròng ròng lệ ứa: “Chiều đi lên đồi cao hát trên những xác người…” Những đêm trên trảng cát trắng Hòa Khánh tôi vẫn còn nhớ những ánh hỏa châu vút lên trên nền trời nhập nhòa, cái sắc trời của vùng đất sát bên biển, cái màu âm âm mờ tối của những tiếng súng vọng về từ phía núi, cái màu sáng vàng vọt của những đêm trăng mùa đông, những vệt khói của máy bay B.52 vương lại sau khi ném bom bay về… Những đốm hỏa châu ấy, sau này tôi nghe trong một giai điệu boléro của những người lính chế độ cũ vẫn hát và ví von lãng mạn rằng những đốm hỏa châu ấy sẽ là ánh mắt của người yêu “theo anh đi ngàn lối”, mơ là “hoa đăng ngày cưới”… Biết làm sao được, những mộng mơ giữa chiến cuộc có thể khiến con người ta đỡ sợ hãi cái bất thường của đời sống, những tích tắc mất còn, những sự thật trần trụi thì vẫn thế không thể khác được, “Chiến tranh là chiến tranh!”. Tôi nhớ những gia đình trong trại tạm cư ấy có con cái chết trận đi nhận xác con về, tiếng khóc hờ ai oán vang dài trên triền cát trắng mênh mông rợn ngợp… Chiến tranh không còn là một cái gì đó mơ hồ với tuổi thơ của tôi mà hiện hữu cụ thể và ám ảnh, chiến tranh đã khiến những đứa trẻ già đi trong âu lo và ngày tháng hồn nhiên bị nhấn chìm dưới chất chồng sợ hãi.

            Sau ngày tôi theo gia đình xiêu tán theo nhiều cuộc tản cư khác, những ngày tạm sống ở vùng đồi Câu Nhi giáp vùng giải phóng Quảng Trị cả nhà tôi thường xuyên sống dưới hầm. Căn hầm bé tí dưới căn nhà tôn tạm bợ, không ngày nào không nghe những tiếng pháo vọng về từ miệt miền tây Trị Thiên, những cuốn truyện cổ tích cha tôi mua cho tôi đọc hình như chẳng có cho tôi một giấc mơ hoàng tử hay công chúa nào cả, khi ấy tôi chỉ mơ có một căn hầm thật chắc chắn, đầy đủ lương thực cho cả nhà tôi sống trọn đời trong đó.Chiến tranh khiến ước mơ tuổi thơ của tôi chỉ có thế, bây giờ hẳn chả có cậu bé cô bé nào lại mơ như thế: Một căn hầm để trú và cả nhà không bị đói. Rồi mùa xuân 1975, tôi nhớ khi cả nhà trở vào Huế, chạy về quân cảng Thuận An…những cái chết tức tưởi trong cuộc đua tranh mất còn để vượt sóng lao ra với chiếc tàu buông neo ngoài khơi mong thoát ra khỏi “địa ngục tao loạn”, thoát khỏi một cuộc “tắm máu” như luận điệu hù dọa tuyên truyền của bộ máy chiến tranh ngụy quyền Sài Gòn. Cha tôi bảo: - Không chạy đi đâu nữa, về lại làng xưa! Khi ấy tôi vừa mười tuổi.

            Tuổi thơ tôi ra khỏi chiến tranh!

            Nhưng chưa ra hẳn!

 

            3- Nhiều năm sau ngày hòa bình, bom đạn còn vương lại trong đất đai đồng ruộng quê nhà vẫn tiếp tục mang nỗi đau hậu chiến, khoác những vành khăn tang trắng lên hầu hết thôn dân trong xóm nghèo quê tôi. Và người cha thân yêu của mấy anh em tôi  cũng nằm xuống đồng bãi quê nhà bởi một quả bom bi lẫn sâu trong cỏ, dù ngọn gió hòa bình đã thổi qua làng tôi nhiều năm rồi…

            Thấm thoát ba mươi năm đi qua, đi qua bao nhiêu bể dâu, bao nhiêu tháng ngày gieo neo khốn khó, nhưng rồi tất cả vẫn bước về phía trước… Tôi không nghĩ cuộc sống hạnh phúc là một điều gì cao xa ghê gớm. Những hồi quang từ ánh hỏa châu ngày chiến tranh vẫn rọi về trong tâm trí, đủ cho tôi nói với con gái yêu quí của mình rằng, mỗi ngày bình yên của con hôm nay, không nghe súng đạn rền và không “mang mũ rơm đi học đường dài” ấy đã là hạnh phúc.

            Cuộc sống của bao nhiêu người có thể còn gian khó, mỗi ngày vẫn còn đánh vật với trần ải mưu sinh, nhưng ông bà ta xưa đã có một đúc kết chí lý: Ăn no chẳng bằng ở yên! Cái “ở yên” ấy chính là hiện thân cụ thể của giấc mơ thái hòa cho mọi người, cho mỗi ngày.

            Ba mươi năm bình yên dưới làn gió hòa bình, ba mươi năm mồ hôi, nước mắt và cả máu gầy dựng cuộc sống mới trên hố hầm bom đạn tan hoang, mơ giấc mơ hóa thành ruộng vàng; ba mươi năm để rồi những câu thơ của Huy Cận trong bài “Trời mỗi ngày lại sáng” vẫn nguyên dáng tinh khôi hơi thở của bình yên: Cuộc sống còn khó nhọc/ Nhưng đời đổi mới rồi/ Tiếng trẻ con ngồi học/ Giục mùa xuân đâm chồi…

            Hạnh phúc của tôi, một người bình thường cũng chỉ như thế. Nhớ mạ tôi, tuổi sắp bảy mươi cứ mỗi lần thấy trên tivi những đạn bom đâu đó tận Trung Đông xa xôi, những chuyện khủng bố ở Đông Âu… lại bảo mấy đứa con tắt tivi. Bà bảo: “Thôi cơm nước ruốc mà không súng đạn cũng là ngon con ơi…”. Chiến tranh với mạ tôi đã quá đủ hơn nửa chặng đường đời, và bây giờ những đứa cháu nội ngoại của bà mỗi ngày quây quần bên bà dưới tán cây xanh mát trong mảnh vườn nhỏ chứ không phải dưới căn hầm với ầm ì, tiếng bom pháo vọng về đã là hạnh phúc. Bởi có được cái ngày hôm nay hàng ngàn mộ bia trên gần một trăm nghĩa trang liệt sĩ trên đất Quảng Trị này đã nói lên rất nhiều những ẩn dụ của hòa bình, những ngụ ngôn của một ngày bình thường mà đôi khi vì quá bình thường người ta không kịp hiểu đó là hạnh phúc, như Girbal đã viết:

            …Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy

            Ta được thêm ngày nữa để yêu thương..

                                                                                                Vào xuân 2005

                                                                                         L.Đ.D

Lê Đức Dục
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 127 tháng 04/2005

Mới nhất

Hòn ngọc Bali giữa biển xanh

30/04/2024 lúc 17:44

 Người Việt đi du lịch Bali, hầu như chỉ biết đến những bãi tắm xa

Tự do xanh quá, mênh mông quá

30/04/2024 lúc 04:11

Thơ ca không phải là ghi chép lại lịch sử nhưng lịch sử qua thơ mang một vẻ đẹp bất ngờ và độc đáo không thể hình dung hết. Tuy nhiên, để làm được điều đó, thi sĩ phải thực sự tài năng và có cơ hội tiếp cận được hiện thực lộng lẫy trong những thời khắc có một không hai của lịch sử. Hai mươi năm đánh trận trường kỳ, cả dân tộc không đêm nào ngủ được, cả dân tộc hành quân ra trận, cả dân tộc đội triệu tấn bom để hái mặt trời và có ngày Chiến thắng 30 tháng tư năm 1975, cũng là ngày mở ra cánh cửa hòa bình, thống nhất non sông cho đất nước.

Trên đất đồi đã thôi thuốc súng

28/04/2024 lúc 16:38

Để thấy sự hồi sinh của một vùng đất, đôi khi phải làm khách vãng lai quan sát. Nhận ra

Mùa hoa chêng đỏ

28/04/2024 lúc 16:33

Chưa bao giờ chêng nghĩ mình là một loài hoa được nâng niu, chiều chuộng, cũng không mơ được

Trận pháo kích Cứ điểm 241

28/04/2024 lúc 16:31

Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn đã sụp đổ, miền

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

07/05

25° - 27°

Mưa

08/05

24° - 26°

Mưa

09/05

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground