1- Thấm thoát đã ba mươi năm đi qua, ba mươi năm kể từ ngày mùa xuân 1975, mùa xuân chiến thắng, cái mùa xuân “bao năm vẫn đợi chờ mà niềm vui cứ đến bất ngờ”. Khi ấy tôi mười tuổi, và tôi chưa đủ lớn khôn để hiểu tuổi thơ tôi đã may mắn ra khỏi cuộc chiến.
Mười tuổi, chỉ bằng tuổi con gái tôi bây giờ
Mười tuổi của con gái tôi bây giờ là chơi games nhoay nhoáy trên computer, khi bố bận bịu có thể vào mạng internet để check mail (kiểm tra thư điện tử) giúp cho bố. Mười tuổi cháu đã được đi chơi nhiều nơi chốn Hà Nội, Sài Gòn, Đà Lạt, Hội An… đã đi tàu hỏa, máy bay,… cháu cũng chỉ là một đứa trẻ bình thường và tôi không hề có ý khoe về những gì con gái yêu của mình đã có được… Cái tuổi lên mười của con gái thức dậy trong tôi bao cảm thức trước cuộc đời, trước những trăn trở về cuộc sống, nhưng thẳm sâu trong ấy, mỗi ngày bình yên hôm nay đều mang đến những hạnh phúc giản dị, vẻ đẹp đôn hậu của cuộc đời mà không phải ai cũng dễ dàng nhận ra. Và những hồi ức bé thơ trong tôi khi nghĩ về tuổi lên mười của cha và con chợt bật ra khi một chiều ngồi coi tivi cùng con gái… Câu chuyện về chiến tranh với những thước phim đen trắng, loang loáng viết đạn lửa vút lên, nhoáng nhoàng âm thanh chát chúa… bỗng con bé hỏi hồn nhiên: Hồi xưa ba có thấy bom đạn không? Ôi con gái của tôi, mỗi ngày bình yên con sống hôm nay sẽ ý nghĩa biết bao nếu biết những chuyện xa xưa bây giờ kể lại…
Con gái học lớp bốn, nhà cách trường chưa đầy một trăm mét mà ngày nào cũng chăm chỉ và chính xác như một cái đồng hồ đưa đón con đến lớp… Còn ngày xưa, cũng tuổi này bao đứa bé thời chiến đã đi vào câu thơ “mang mũ rơm đi học đường dài”. Đây là câu chuyện về những thế hệ học trò đất Bắc đến trường dưới bom đạn, lớp học, là căn hầm chữ A và những câu thơ của cậu bé Trần Đăng Khoa ngày nào vẫn như vương mùi khói bom: “Em nghe như Bác dạy lời/ Cháu ơi đừng có chời bời đâu xa/ Trồng rau, quét bếp, đuổi gà/ Thấy tàu bay Mỹ nhớ ra hầm ngồi…” (Góc sân và khoảng trời).
2-Tôi sống ở miền
Sau ngày tôi theo gia đình xiêu tán theo nhiều cuộc tản cư khác, những ngày tạm sống ở vùng đồi Câu Nhi giáp vùng giải phóng Quảng Trị cả nhà tôi thường xuyên sống dưới hầm. Căn hầm bé tí dưới căn nhà tôn tạm bợ, không ngày nào không nghe những tiếng pháo vọng về từ miệt miền tây Trị Thiên, những cuốn truyện cổ tích cha tôi mua cho tôi đọc hình như chẳng có cho tôi một giấc mơ hoàng tử hay công chúa nào cả, khi ấy tôi chỉ mơ có một căn hầm thật chắc chắn, đầy đủ lương thực cho cả nhà tôi sống trọn đời trong đó.Chiến tranh khiến ước mơ tuổi thơ của tôi chỉ có thế, bây giờ hẳn chả có cậu bé cô bé nào lại mơ như thế: Một căn hầm để trú và cả nhà không bị đói. Rồi mùa xuân 1975, tôi nhớ khi cả nhà trở vào Huế, chạy về quân cảng Thuận An…những cái chết tức tưởi trong cuộc đua tranh mất còn để vượt sóng lao ra với chiếc tàu buông neo ngoài khơi mong thoát ra khỏi “địa ngục tao loạn”, thoát khỏi một cuộc “tắm máu” như luận điệu hù dọa tuyên truyền của bộ máy chiến tranh ngụy quyền Sài Gòn. Cha tôi bảo: - Không chạy đi đâu nữa, về lại làng xưa! Khi ấy tôi vừa mười tuổi.
Tuổi thơ tôi ra khỏi chiến tranh!
Nhưng chưa ra hẳn!
3- Nhiều năm sau ngày hòa bình, bom đạn còn vương lại trong đất đai đồng ruộng quê nhà vẫn tiếp tục mang nỗi đau hậu chiến, khoác những vành khăn tang trắng lên hầu hết thôn dân trong xóm nghèo quê tôi. Và người cha thân yêu của mấy anh em tôi cũng nằm xuống đồng bãi quê nhà bởi một quả bom bi lẫn sâu trong cỏ, dù ngọn gió hòa bình đã thổi qua làng tôi nhiều năm rồi…
Thấm thoát ba mươi năm đi qua, đi qua bao nhiêu bể dâu, bao nhiêu tháng ngày gieo neo khốn khó, nhưng rồi tất cả vẫn bước về phía trước… Tôi không nghĩ cuộc sống hạnh phúc là một điều gì cao xa ghê gớm. Những hồi quang từ ánh hỏa châu ngày chiến tranh vẫn rọi về trong tâm trí, đủ cho tôi nói với con gái yêu quí của mình rằng, mỗi ngày bình yên của con hôm nay, không nghe súng đạn rền và không “mang mũ rơm đi học đường dài” ấy đã là hạnh phúc.
Cuộc sống của bao nhiêu người có thể còn gian khó, mỗi ngày vẫn còn đánh vật với trần ải mưu sinh, nhưng ông bà ta xưa đã có một đúc kết chí lý: Ăn no chẳng bằng ở yên! Cái “ở yên” ấy chính là hiện thân cụ thể của giấc mơ thái hòa cho mọi người, cho mỗi ngày.
Ba mươi năm bình yên dưới làn gió hòa bình, ba mươi năm mồ hôi, nước mắt và cả máu gầy dựng cuộc sống mới trên hố hầm bom đạn tan hoang, mơ giấc mơ hóa thành ruộng vàng; ba mươi năm để rồi những câu thơ của Huy Cận trong bài “Trời mỗi ngày lại sáng” vẫn nguyên dáng tinh khôi hơi thở của bình yên: Cuộc sống còn khó nhọc/ Nhưng đời đổi mới rồi/ Tiếng trẻ con ngồi học/ Giục mùa xuân đâm chồi…
Hạnh phúc của tôi, một người bình thường cũng chỉ như thế. Nhớ mạ tôi, tuổi sắp bảy mươi cứ mỗi lần thấy trên tivi những đạn bom đâu đó tận Trung Đông xa xôi, những chuyện khủng bố ở Đông Âu… lại bảo mấy đứa con tắt tivi. Bà bảo: “Thôi cơm nước ruốc mà không súng đạn cũng là ngon con ơi…”. Chiến tranh với mạ tôi đã quá đủ hơn nửa chặng đường đời, và bây giờ những đứa cháu nội ngoại của bà mỗi ngày quây quần bên bà dưới tán cây xanh mát trong mảnh vườn nhỏ chứ không phải dưới căn hầm với ầm ì, tiếng bom pháo vọng về đã là hạnh phúc. Bởi có được cái ngày hôm nay hàng ngàn mộ bia trên gần một trăm nghĩa trang liệt sĩ trên đất Quảng Trị này đã nói lên rất nhiều những ẩn dụ của hòa bình, những ngụ ngôn của một ngày bình thường mà đôi khi vì quá bình thường người ta không kịp hiểu đó là hạnh phúc, như Girbal đã viết:
…Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta được thêm ngày nữa để yêu thương..
Vào xuân 2005
L.Đ.D