L |
ịch sử lưu dân Việt là những câu chuyện bất tận. Cùng với những biến động lịch sử, cả ngàn năm qua người Việt đã có mặt khắp năm châu bốn bể, hình thành nên những cộng đồng đông đúc như ở Bắc Mỹ, Đông Â
Tuy nhiên chưa ở đâu lịch sử của cộng đồng Việt Kiều lại gắn bó với những thăng trầm của số phận đất nước như ở miền đông bắc Thái Lan - vùng đất vẫn được gọi trong các sách địa dư là miền đất I-san. Chúng tôi đã có một chuyến đi “ba lô” về miền đất ấy, đã thấy và đã gặp những con người, những câu chuyện lịch sử ít khi được nói ra…
Tổ quốc phía mặt trời…
Đi theo xe open tour của Sepon Travel từ Đông Hà, hết 335 cây số quốc lộ 9, đến bờ Đông sông Mekong thì chia tay, đoàn khách đi tour qua phà rồi thẳng hướng Bangkok, còn chúng tôi xốc lại ba lô nhìn con nước Mekong cuồn cuộn phù sa. Qua phà Mukdahan, bắt đầu đặt chân lên cửa ngõ của hành lang Đông Tây phía đất Thái. Từ Mukdahan, theo tấm bản đồ miền Đông bắc và cuốn sách giới thiệu về miền đất Isan, chúng tôi sẽ phải làm một vòng tròn qua ít nhất mười tỉnh trong số mười chín tỉnh của vùng này. Dự tính đi từ Mukdahan men theo sông Mekong lên NakhonPhanom, nơi có ngôi nhà lưu niệm Bác Hồ, (cũng là tỉnh rất đông Việt Kiều) rồi vòng theo hướng tây lên Sacon Nakhon, Udon Thani, Khonkaen, Kalaxin … nhưng rồi một Việt kiều ở Muk khuyên chúng tôi nên đi lên Khonkaen trước, đấy là thành phố thủ phủ vùng Đông bắc Thái Lan, tòa Tổng lãnh sự Việt Nam tại vùng Đông bắc cũng được đặt ở đấy. Từ đấy hẳng muốn đi đâu thì đi…
Anh Nguyễn Kim Chiến, cán bộ phụ trách công tác Việt kiều của tòa lãnh sự ở Khonkaen là người am hiểu khá tường tận về lịch sử cộng đồng Việt kiều ở vùng này. Theo anh Chiến, khác với những người Việt đầu tiên đến Thái Lan hồi cuối thế kỷ 18, theo phò Nguyễn ánh, bấy giờ lưu vong sang Vọng Các (Bangkok), Việt kiều vùng Đông bắc Thái đến đây thế hệ đầu tiên hầu hết là những người dân yêu nước, khi phong trào Cần Vương, Văn Thân… thất bại vào cuối thế kỷ 19, bị đàn áp đã tìm cách sang Lào, Thái Lan, tập trung dọc hai triền sông Mekong từ vùng kề thủ đô Vientane (Lào) - Noong Khai (Thái) dọc về Pakxan, Thakhet (Lào) - Nakhon Phanom (Thái), Savanakhet(Lào) - Mukdahan (Thái)… Khi ấy dòng
Anh Chiến giới thiệu cho chúng tôi gặp bác Hội trưởng Việt kiều Vùng Đông bắc Thái. Sau cuộc điện thoại giới thiệu về chúng tôi của anh Chiến, một ông lão đã ngoài bảy mươi lái ô tô đến tòa lãnh sự. Bác là Hoàng Minh Tâm, một người đã sinh ra trên đất Thái từ những năm 1930. Câu chuyện với bác Tâm diễn ra trong hồi ức bất tận của bác nối về từ thế kỷ 19, thuở cụ cố của bác, một nghĩa binh của Phan Đình Phùng, khi phong trào Văn Thân tan rã, đã cùng nhiều nghĩa binh khác tìm đường sang Lào, Xiêm lánh nạn, tránh sự truy sát của triều đình nhà Nguyễn. Những năm 1927-1929, khi Bác Hồ về đây gây dựng, những người con của các nghĩa binh phong trào Văn Thân đã trở thành những cộng sự, những đồng chí đầu tiên đầy tin cậy. Cụ thân sinh của bác Tâm là một trong số những người đã hoạt động cùng Bác Hồ những năm tháng ấy. Những người Việt khi phải bỏ xứ ra đi lánh nạn, nhưng lòng yêu nước vẫn đắp bồi vọng về cố quốc như một lớp phù sa nguồn cội, nay ở quê người, gặp hạt giống cách mạng Bác Hồ gieo xuống đã nhanh chóng sinh sôi phát triển. Theo bác Tâm cho biết, nhiều người sau này đã hỏi: Vì sao Bác Hồ lại chọn vùng Đông bắc Thái Lan để lập các cơ sở cách mạng? Theo bác Tâm vùng đất này có những yếu tố rất thuận lợi về quan hệ giao lưu giữa Việt-Lào-Thái. Những năm ấy các cơ sở ở Nakhon Phanom chỉ cách Thàkhẹt đất Lào một con sông Mekong, từ đấy về móc nối với các cơ sở cách mạng trong nước vùng Nghệ An, Hà Tĩnh... rất gần. Khu vực Udon Thani chủ yếu tập trung lực lượng quân sự, hậu cần... Xa hơn, vùng Phichit Bác mở trường đào tạo, huấn luyện cán bộ... (Mấy hôm sau về thăm nhà lưu niệm Bác Hồ ở làng Nachock (Nakhon Phanom) chúng tôi cũng được nghe bác Võ Trọng Tiêu, người đang chăm sóc ngôi nhà lưu niệm Bác Hồ cũng nói rằng sở dĩ bấy giờ bác Hồ chọn vùng Đông Bắc Thái để gầy dựng cơ sở chuẩn bị cho cách mạng trong nước là vì bấy giờ hầu như cả Đông Nam á đều là thuộc địa của Anh hoặc Pháp, chỉ Thái Lan còn độc lập, vả lại cộng đồng người Việt sang đây rất đông nên Bác đã chọn vùng này). Người Việt bấy giờ ở đôi bờ
Tháng 3-1946, mặt trận Thàkhẹt vỡ, hàng ngàn Việt kiều đã từ Lào vượt sông sang nương nhờ vào sự che chở bảo bọc của bà con người Việt đang sống bên đất Thái. Kể từ cái ngày tháng 3 năm 1946 ấy cả một vệt dài từ Thabò, Noong khai, về Nakhon Phanom, Mukdahan…lên tận Phi Chit, UdonTha ni..số lượng Việt kiều lên đến cả chục vạn người. Riêng số Việt kiều từ Lào sang lánh nạn trước sự khủng bố của Pháp quay lại tái chiếm Đông Dương đã lên đến năm vạn người. Không thể quên công ơn bảo bọc ấy của miền đất và con người xứ Đông bắc Thái Lan.
Hơn một thế kỷ sống nơi đất khách quê người, trải bao “chớp bể mưa nguồn” điều gì đã khiến cho người Việt vẫn giữ vẹn nguyên những tập quán, nếp nhà đến lời ăn tiếng nói?
Hôm về Mukdahan, tình cờ chúng tôi lại đến thăm một đám tang người Việt. Cụ tên là Hà Văn Lâu, người
Hôm đi xe từ Mukdahan lên Khonkaen, chiếc xe chở chúng tôi đi bị hỏng khi vừa rời thành phố bốn chục cây số, còn gần 250 cây số nữa, đường cao tốc biết làm sao đón xe? Thế nhưng anh Hải- người dẫn đường bảo: Cứ yên tâm thế nào cũng có xe của bà con mình lên Khonkaen theo đường này vì hôm qua ở Mukdahan có một đám cưới của Việt Kiều(!). Tôi băn khoăn: Đám cưới thì liên quan gì đến chuyện xe cộ? Anh Hải cười: Bên này bà con mình quý nhau lắm, đám cưới, đám ma dù cách nhau cả ngàn cây số nếu được mời hay được biết đều tìm đến. Có khi tận Bangkok vẫn lái xe đi cả đêm về, gần ngàn cây số, gặp nhau để được nói với nhau bằng tiếng Mẹ. Đúng như anh Hải nói, sau khi lấy điện thoại bấm bấm, một chốc sau chúng tôi may mắn gặp anh Dũng, (mà chúng tôi đã nhắc ở đầu bài) ghé từ Mukdahan lên đón và đưa về thành phố Khonkaen. Người thợ mộc năm xưa bây giờ đã là giám đốc một công ty thiết kế và trang trí nội thất khá lớn ở Khonkaen, cũng là một người hoạt động rất tích cực trong ban đại diện Việt kiều ở đây. Trước hôm rời thành phố Khonkaen, tình cờ tôi được anh Đặng Văn Dũng cho xem cuốn anbum gia đình. Những tấm hình từ ba mươi, bốn mươi năm trước khiến tôi không khỏi ngỡ ngàng. Giữa những ngày gian khó của thập niên 60-70 thế kỷ trước bà con vẫn giữ lòng trung trinh cùng Tổ Quốc. Và chúng tôi chợt hiểu…
Tấm hình chụp đám cưới của hai vợ chồng anh Dũng và chị Bé, chị mặc áo dài truyền thống cùng chồng thắp hương trước bàn thờ Tổ Quốc. Bàn thờ phía trên cùng lá quốc kỳ và khẩu hiệu “Tổ Quốc trên hết”, giữa là chân dung Bác Hồ. Đấy là năm 1972, khi ở bên này đất nước đang những ngày dốc sức giải phóng miền
Giấc mơ cố hương...
Buổi tối ở Khonkaen, đang ngồi ăn tối cùng mấy anh em Việt Kiều ở đấy bổng chuông điện thoại di động của anh Hải ngồi trong bàn réo vang, đang nghe gương mặt anh chợt rạng rỡ hẳn lên, thông báo: Bà con dưới Mukdahan vừa gọi lên bảo rằng đợt này Muk có thêm hơn một trăm người được nhập tịch, chưa biết tất cả các tỉnh trong vùng có bao nhiêu người được cấp…Vậy là ai cũng móc điện thoại ra và gọi khắp nơi. Anh Chiến phụ trách công tác Việt kiều ở tòa Tổng lãnh sự Khonkaen gọi về hỏi Đại sứ quán ở
Hỏi ra mới hay, rất nhiều bà con người Việt suốt một đời người sống trên đất Thái, thế nhưng vẫn chưa được nhập quốc tịch Thái Lan. Không được nhập quốc tịch nghĩa là đối mặt với cả một núi khó khăn trong cuộc sống. Không được đứng tên mua bán chuyển nhượng đất đai nhà cửa, không có môn bài kinh doanh xuất nhập khẩu, và đáng lo nhất vẫn là chuyện con cái không được vào đại học, hoặc nếu vào đại học phải chịu một khoản học phí như người ngoại quốc (cao gấp năm lần so với người Thái) và rất khó có thể tìm được việc làm tại các công sở. Bác Hoàng Minh Tâm cho biết: Ngày trước, những năm chưa được thông thoáng trong quan hệ hai nước, muốn cho con em mình thuận lợi trong tương lai, khi sinh con ra nhiều nhà phải gửi con mình cho những bà con đã được nhập quốc tịch, mỗi người nhận giúp cho một đứa, vậy mới sinh ra chuyện trong gia đình mấy anh em ruột mỗi người phải mang một họ khác nhau. Dĩ nhiên bây giờ tình hình đã rất khác so với trước đây. Một số con em sinh ra thuộc thế hệ thứ ba, thứ tư trên đất Thái đã được cấp quốc tịch Thái. Phần đông số chưa được nhập quốc tịch là những người thuộc thế hệ thứ nhất, thứ hai, những người đã suốt một đời nắng mưa trên đất Thái vẫn đau đáu vọng về cố xứ với giấc mơ được hôn nắm đất quê nhà. Làm sao nói hết được niềm ngóng vọng khắc khoải ấy?
Nhưng có một người Thái Lan lại hiểu rõ tâm nguyện, nỗi lòng của những Việt kiều, bà là tiến sĩ Thăndzathip Siphanar, công tác tại Viện Giáo dục Châu á thuộc Đại học Chulalongkorn (Bangkok). Bà đã nhìn thấy tiềm năng của cộng đồng người Việt ở Đông bắc Thái: “Nếu chính phủ nhập quốc tịch Thái cho những người Việt này thì không chỉ họ được lợi mà ngược lại chính phủ cũng sẽ nhận được từ họ những cống hiến to tớn cho đất nước Thái Lan, bởi họ là những người có năng lực. Phải thừa nhận người Việt ở đây là những người cần cù siêng năng, chịu khó và giàu lòng nhẫn nại. Bà dẫn chứng: ở vùng đông bắc Thái Lan có nhiều mảnh đất khô cằn đã được họ khai phá là làm cho vùng đất khô cằn ấy trở nên trù phú xanh tươi. Nếu không tin cứ thử đến xem trang trại trồng cam ở U donThani (trang trại này của anh Nguyễn Văn Tấn, một Việt kiều ở Udon – người viết) rộng cả ngàn hecta. Không chỉ là nơi trồng trọt mà đây còn là nơi nghiên cứu thực tập cho các nhà nông và không ít người là các kỹ sư nông nghiệp”.
Có thể nói cuộc họp nội các chung giữa hai chính phủ Việt -Thái tại Đà Nẵng và NakhonPhanom hồi tháng 2-2004 đã mở ra một triển vọng tốt đẹp chưa từng có cho quan hệ hai nước đặc biệt là vấn đề nhập tịch của bà con Việt kiều.
Hôm khánh thành làng Hữu nghị Việt Thái ở bản Nachock-Thủ tướng Thái Lan, ngài Thaksin Shinawatra đã nhấn mạnh trong bài diễn văn rằng: “Tôi đã được nghe ngài Thủ tướng Phan Văn Khải nói rằng nhiều người Thái gốc Việt lớn tuổi sinh sống tại đây qua nhiều thế hệ, đã có con cháu nhưng vẫn chưa có giấy tờ hợp pháp, tôi hứa sẽ chỉ thị và thúc đẩy Bộ Nội vụ và chính quyền địa phương sớm cấp giấy tờ cho những người dân này để có dịp được về thăm quê hương". Ngay sau đó, một cuộc họp về cấp quốc tịch cho các Việt kiều đã khẩn trương tiến hành với sự có mặt của các tỉnh trưởng trong vùng Đông Bắc Thái. Chưa đầy ba tuần sau, ngày 12-3-2004 tại hội trường trường Đại học sư phạm tỉnh Nakhon Phanom, đại diện chính quyền Thái Lan, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, ngài Pramuan Ruchanaserre đã trao quốc tịch cho 572 người Việt thuộc thế hệ sinh trưởng ở Thái Lan hiện đang cư trú tại các tỉnh vùng Đông Bắc Thái. Tại buổi lễ này đại diện chính quyền cũng cho biết sẽ có những đợt trao quốc tịch tiếp để giải quyết dứt điểm hàng ngàn hồ sơ xin cấp quốc tịch Thái Lan của người Việt đã nộp cơ quan chức năng.
Khi chúng tôi đến thăm làng hữu nghị Việt Thái ở bản Nachock, nhiều người dân vẫn còn náo nức nhớ lại cái phút giây hạnh phúc khi thấy cờ Tổ quốc và cờ Thái Lan treo rợp đường Nakhon Phanom, chưa bao giờ họ tự hào và hãnh diện như thế khi Thủ tướng hai nước đã cắt băng khánh thành ngôi làng hữu nghị. Từ giờ phút ấy, nhất là sau lời hứa của Thủ tướng Thaksin Shinawatra với vấn đề cấp quốc tịch, đường về thăm lại cố hương của những người Việt cao niên không còn quá xa vời. Và cùng với việc mở ra quan hệ gần gũi và thắm thiết giữa hai nước, đường về cố hương càng gần hơn về với xa lộ xuyên á, con đường hành lang kinh tế Đông Tây đang rút ngắn khoảng cách quan san từ miền Isan về đất Việt ….
Những ngày ở vùng đất đông bắc Thái nhiều khi đang ngồi trò chuyện với mấy anh em Việt kiều, bỗng... Quốc ca Việt
Hai chiều thương nhớ …
Trong lúc nhiều bà con ở đây đang cố gắng nhập được quốc tịch để làm hộ chiếu về thăm quê nhà hay ráng kiếm lấy cái giấy “tàng đạo” (công nhận ngoại kiều nhập cư hợp pháp, được coi như giấy tùy thân để có thể tự do đi lại và hành nghề theo luật pháp phổ thông của nước Thái), thì hiện nay rất nhiều Việt kiều hồi hương từ những năm 60 đang quay lại thăm miền đất thơ ấu của mình. Chúng tôi đã gặp khá nhiều bà con mình từ Việt
Hồi xưa để hồi hương, từ Noongkhai chị theo đoàn về tận
Đường về nhà gần quá mà sao vẫn mãi là nỗi niềm đau đáu trong bao người? Không chỉ là chuyện nhớ nhung cố xứ, nhiều Việt kiều cũng rất muốn về quê nhà đầu tư, làm ăn, chuyển giao công nghệ cho bà con bên nhà…
Cứ như lộ trình chúng tôi đã đi từ Việt
Con đường 9 trước đây rất quan san vắng vẻ, chạy từ Savẳn về tận Lao Bảo chỉ rừng và đồng hoang, vài thị trấn lèo tèo dọc đường ở các huyện lỵ như Sêpôn, Mường Phìn, Sênô… Bây giờ con đường đã được nâng cấp dài 250 km thảm nhựa láng o, những thị trấn bên đường cũng đã mang một dáng vóc khác, tuy chưa đông đúc sầm uất dân cư. Và điều mà tất cả bà con Việt kiều ở miền Đông Bắc Thái kỳ vọng nhất là cây cầu Hữu nghị số 2 (còn gọi là cầu Mittafab) nối Mukdahan với Savanakhet đang thi công, dự định hoàn thành vào cuối năm 2006. Hôm chúng tôi rời Muk sang Savẳn đất Lào, từ bên bờ đông
Chao ôi, tận miền Đông Bắc Thái mà rủ nhau: “Cuối tuần này về thăm nhà nhé!” thì quá ư sung sướng, bởi trước đây điều ấy với mọi người chỉ là một giấc mơ, nhưng bây giờ tất cả đang trong tầm tay!
L.Đ.D