N |
ăm 1954, cuộc kháng chiến trường kỳ suốt chín năm chống thực dân Pháp xâm lược của quân dân ta đã kết thúc.
Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, từ tháng 7.1954, nước ta tạm chia hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Kể từ đó, cầu Hiền Lương trở thành nơi tiếp giáp, đối mặt giữa hai lực lượng ta với địch, giữa hai chế độ xã hội chủ nghĩa với thực dân đế quốc nô dịch.
Thuở ấy tôi và các bạn cùng lứa lên tám, chín tuổi nghe người lớn từ giới tuyến ra kể: nào là cầu gỗ Hiền Lương 7 nhịp sơn hai màu, hai đầu cầu có hai cột cờ cao vút. Trên cột cờ phía bắc Hiền Lương lá cờ đỏ sao vàng to hàng trăm mét vuông thật vĩ đại và hoành tráng. Trông lá cờ phần phật tung bay, trong lòng ai cũng phơi phới tình yêu Tổ quốc, tin ngày Nam Bắc sum họp. Còn bờ phía Nam, cờ “ba que” của Mỹ ngụy nhìn mà đã ghét, bởi nó là biểu tượng của lũ bán nước, hại dân, chia cắt giang sơn. Chúng tôi nghe người lớn tả lại hệ thống phóng thanh của hai bên đều phát cực mạnh bằng những chùm loa cỡ bự để tuyên truyền. “Tiếng nói Việt
Trăm nghe không bằng một thấy, tốp trẻ con trong làng Thuận Trạch chúng tôi cứ mong sao có dịp vào Hiền Lương tận mắt ngắm cảnh ấy mới thỏa lòng.
May thay... ngày 2.9.1959, tôi và một đứa bạn chí thân cùng xóm được cha mẹ thay việc chăn bò để chúng tôi được thoải mái xem hội đua thuyền trên sông Kiến Giang. Khoái chí hơn nữa là chúng tôi đều được thưởng một ít tiền ăn quà tết Độc lập. Cơ hội có một không hai đã đến... Tôi và Trà Khương, bạn chí thân cùng xóm, theo mấy anh chị thanh niên cuốc bộ một mạch vào thị trấn Hồ Xá rồi tuột thẳng vô cầu Hiền Lương từ lúc mờ sáng. Nhờ có “động cơ đốt trong” là thấy cho được cảnh cầu Hiền Lương, nên chúng tôi mở hết tốc lực “guồng bộ” trên ba mươi cây số từ Kiến Giang (Lệ Thủy, Quảng Bình) vào đến bắc cầu Hiền Lương (Thuộc Vĩnh Linh, Quảng Trị) trong một ngày chưa tối.
Được trạm kiểm soát khu phi quân sự giới tuyến cho phép, chúng tôi đứng cách chân cầu Hiền Lương không xa, ngắm toàn cảnh đôi bờ Hiền Lương đúng như người ta từng kể trước đó.
Đêm ấy chúng tôi được các chú công an cho nghỉ lại ở trạm khách. Do lạ nhà, uống nước chè đậm và không khí ngày lễ nên chẳng ai ngủ được, tất cả thức chong nghe đài “tiếng nói Việt Nam” phát qua hệ thống loa cực mạnh nghe rất sướng tai. Đặc biệt đêm ấy có tiếng thơ. Nghệ sĩ Châu Loan ngâm nghe xúc động quá ! Bấy giờ, tôi chưa đủ trình độ để nhớ và phân tích cái hay của bài thơ và giọng ngâm, mà chỉ cảm xúc tự nhiên bởi những lời ngọt ngào sâu lắng lọt vào tai, ngấm vào tâm hồn một cách êm ái thiết tha đến ứa lệ. Đại ý bài thơ do nghệ sĩ Châu Loan trình bày: Đôi trai gái yêu nhau tha thiết, chưa kịp cưới thì anh phải lên đường ra Bắc tập kết .Chị ở lại miền Nam chờ đợi sau hai năm hiệp thương tổng tuyển cử, Nam Bắc nối liền họ đoàn tụ, nên duyên chồng vợ. Nhưng ngày hẹn qua lâu lắm rồi mà vẫn “chàng Ngưu ả Chức” vời vợi xa... hỏi lỗi này tại ai? Nghe xong tiếng thơ, mấy chú công an cùng các anh chị thanh niên làng tôi có mặt trong phòng khách trầm trồ xuýt xoa khen hay. Các chú công an còn kể rằng: Bà con mình ở bên kia sông Bến Hải mỗi khi nghe Đài tiếng nói Việt
Chuyến đi “lén” vô xem cầu Hiền Lương, ở lại qua đêm của tôi và thằng Khương đã làm cho gia đình một phen “thói tim” vì tưởng rằng xem đua bơi trên sông nước giữa ngày hội dễ sa sẩy... Chiều 3.9, thấy chúng tôi trở về vẻ phờ phạc do cuốc bộ đường dài, cha mẹ mắng yêu rồi xoa đầu và hỏi ngay “vô Hiền Lương có chi hay, tụi bay kể nghe coi!” tôi và Khương tranh nhau kế để “xóa tội”.
Tiếng ngâm thơ của nghệ sĩ Châu Loan đọng mãi trong tôi. Từ đó tôi mê đài Tiếng nói Việt
Năm 1963, đủ tuổi nghĩa vụ quân sự là tôi nhập ngũ ngay. Thật may là tôi được một người bà con tặng chiếc đài be bé xinh xinh, nó theo tôi suốt quãng đời quân ngũ. Chiếc radio ấy là người thầy đầu tiên giúp tôi trở thành thông tin viên báo, đài, vươn lên đạt giải cao cuộc thi viết chuyện kể ở đại đội. Được bồi dưỡng nghiệp vụ, tôi viết ngày càng tốt hơn cho nhiều chuyên mục trên Đài Tiếng nói Việt
Thế rồi tôi được trên điều động ra đảo Cồn Cỏ làm chính trị viên đại đội ra-đa trong những năm tám mươi của thế kỷ trước. Cái đài cũ tôi đã tặng người bạn cùng làng, cùng nhập ngũ trong đợt đồng chí ấy được điều vào B5 chiến đấu. Đồng chí đã hy sinh ở cảng Cửa Việt.
Tôi được cấp trên cấp một cái radio hiệu Trung Quốc. Chẳng biết do tôi, chính trị viên, truyền sự “mê say nghe đài” sang cả đơn vị nên anh em “nghiện” theo, hay trong bầu huyết quản của cán bộ, chiến sĩ đã thấm sâu “tiếng nói Việt Nam - tiếng của lòng mình” mà ai cũng háo hức mỗi khi nhạc hiệu cất lên. Nhờ chăn nuôi, trồng trọt gây vốn sắm đủ cho mỗi bộ phận một radio, mà những ngày bão to, sóng lớn báo chí không ra kịp, đơn vị tôi vẫn thông hiểu tình hình mọi mặt, củng cố tư tưởng, giữ vững ý chí, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nơi biển đảo.
Mỗi lần vào đất liền họp ở vùng 3 Hải Quân, tôi có dịp qua bến Cửa Tùng nơi đặt trạm “tiền phương” của đơn vị. Ngắm quê cảnh Vĩnh Giang, nơi sinh thành nghệ sĩ Châu Loan. Tôi còn được nghe bà con ở đây kể chuyện xưa: hai thanh niên cùng dòng họ đứng gác hai đầu cầu với sắc phục: một bên là công an cách mạng, một bên là lính ngụy Sài Gòn... thì ý tưởng phải viết một bài thơ về người nghệ sĩ ngâm thơ “thần tượng” càng thôi thúc tôi, bởi ngay trong lần thăm Hiền Lương thuở ấy tôi muốn viết lắm rồi mà không đủ năng lực, rồi lớn lên theo công việc quân cơ cuốn đi, đành lỗi hẹn với chính mình...
Đến tháng 9 năm 2000 dù đã trở thành cựu chiến binh nhưng tôi có cơ may, trở lại Vĩnh Giang, rồi qua cầu Hiền Lương lấy tư liệu làm báo...bỗng nhiên như vọng đến giọng ngâm thơ của chị Châu Loan văng vẳng bên tai... tôi thầm kêu lên “nhớ lắm chị ơi” tôi ghi vội những vần thơ vừa thoáng nghĩ ra, vào sổ tay. Về đến nhà, tôi bật đèn gọt giũa lại bài thơ “Nhớ lắm chị ơi” và bỏ ngay vào hòm thư của trạm bưu cục gần nhất, dẫu biết rằng dịp kỷ niệm thành lập Đài Tiếng nói Việt
NHỚ LẮM CHỊ ƠI
Mỗi lần qua bến Hiền Lương
Lòng tôi xa xót nhớ thương một người
Châu Loan ơi chị đâu rồi
Câu hò dịu ngọt trong tôi ngân hoài
Ngày ấy nước còn chia hai
Cầu gỗ bảy nhịp sơn hai loại màu
Tôi - công an gác đầu cầu
Bên kia anh lính mái đầu còn xanh
Chỉ vì đất nước chiến tranh
Mà trẻ hai xóm đứng canh hai đầu
Nhưng chung trên một chiếc cầu
Đêm trăng lắng đọng những câu mái nhì
“Hò ơ . . em tiễn anh đi
Hai năm gặp lại, ta ghi hẹn ngày
Nào ngờ gió quất, mưa bay
Anh đành lỗi hẹn, vì ai hỡi nàng ?...”
Trên đài giọng chị mênh mang
Anh lính bên ấy nhìn sang bên này
Tôi nghe lòng cứ ngất ngây
Nhớ mình là lính đêm nay gác cầu
Câu hò ngắn lại đêm thâu
Tay càng chắc súng, trên đầu sáng sao
Mỗi khi đến bên chiếc cầu
Tim lôi quặn thắt nhớ câu mái nhì. . .
Để có đứa con tinh thần ấy, tôi đã phải “thai nghén” tròn 41 năm.
Tôi thiết tha yêu Đài tiếng nói Việt
Tôi kính yêu nghệ sĩ Nhân dân Châu Loan và tất cả những người làm nên “tiếng nói Việt
Đài còn đó và không ngừng lớn mạnh, “Tiếng nói Việt
Nhớ,
Nhớ lắm
Chị ơi?...
C. K.N