Trong số những gương mặt nhà giáo và trí thức Việt Nam hiện đại, Hồ Thế Hà có thể chưa phải thuộc vào hàng nổi bật, có nhiều thành tựu nhất, nhưng soi chiếu lại cuộc đời ông, chúng ta có thể thấy những đặc trưng điển hình cho một giai đoạn lịch sử của đất nước. Hồ Thế Hà là người trải nghiệm nhiều cung bậc thăng trầm của lịch sử, từ mô hình gia đình phong kiến, đến gia đình cách mạng. Gia đình ông nội có hai người con: một người con trai (bố) và một người con gái (cô) đều tham gia cách mạng trước 1945. Đến 1954, cô ruột và bố đều tập kết ra miền Bắc, cô lấy chồng là tỉnh đội trưởng trước Cách mạng tháng Tám. Sau đó, Hồ Thế Hà cũng đã nếm trải sự khốc liệt chết chóc của chiến trường Campuchia, rồi trở lại giảng đường đại học ở Huế và Hà Nội, để rồi trở thành một Phó giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Người đi qua rừng, ắt hẳn nếm trải nhiều gai góc, thú dữ và cả hoa thơm mật ngọt. Do đó, với việc khảo sát trường hợp Hồ Thế Hà, ta đồng thời có thể khái quát nên số phận, đặc tính của một thế hệ tri thức người Việt cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI.
Hồ Thế Hà sinh năm 1955 tại xã Cát Trinh, huyện Phù Cát, Bình Định trong một gia đình Nho giáo. Ông nội là một cụ đồ Nho, ông cố ngoại là một quan tri huyện, cả hai dòng họ nội ngoại của ông đều tham gia làm chức sắc phong kiến ở làng và huyện. Cha ông học và biết chữ Hán nhưng sau này do sự ảnh hưởng từ thực dân Pháp, nên chuyển sang Tây học (Diplôme). Mẹ ông là cháu ngoại tri huyện nên biết chữ quốc ngữ. Bà là người thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên (Tây học) cho ông, trong giai đoạn chiến tranh không cho phép trẻ em đến trường. Cậu ruột của ông học Tú tài Tây nên từ nhỏ đã dạy cho Hồ Thế Hà tiếng Pháp. Sau này PGS. TS. NGƯT Hồ Thế Hà có thể biết cả 2 ngoại ngữ là Anh - Pháp cũng một phần do nền tảng Tây học từ nhỏ. Như vậy, sự chuyển đổi mô hình tri/trí thức từ Hán hóa sang Tây hóa, do hoàn cảnh đặc thù của lịch sử Việt cuối thế kỷ XX, đã mang lại những đặc trưng về ứng xử, lựa chọn và bản tính nhân cách của Hồ Thế Hà. Thế hệ của ông luôn có sự giao hòa giữa Đông - Tây, giữa Hán học với Tây học, trong đó, bề nổi tri thức thuộc về Tây học (làm Thơ mới, giỏi ngoại ngữ Pháp - Anh, phục trang…) nhưng bề sâu nhân cách lại thuộc về Hán học (hoài cổ, trọng lễ nghĩa, ứng xử trọng tình…). Thế hệ trí thức này sở dĩ tiếp nhận nhanh tri thức Tây phương, nhưng không mất gốc là bởi sự giao hòa giữa hai nguồn cội.
Cha của Hồ Thế Hà sau này tập kết ra Bắc làm cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, làm lãnh đạo ngành đường sắt Việt Nam. Ở miền Bắc, cha Hồ Thế Hà lập gia đình mới bởi hoàn cảnh bắt buộc của lịch sử, sinh ra một thế hệ anh em mới ở miền Bắc dù ông đã có 7 người con với người vợ trước (mẹ ruột Hồ Thế Hà) ở miền Nam. Mẹ Hồ Thế Hà ở vậy nuôi con, không đi bước nữa. Đây cũng là sự chia cắt có tính lịch sử, không chỉ đơn thuần là sự phân ly của một gia đình, mà rộng hơn, là sự phân ly của Nam - Bắc với hai thể chế chính trị khác nhau. Mặc dù “Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai”, nhưng với gia đình Hồ Thế Hà gần như không có sự ghen tuông, phân biệt (vợ) chính - (vợ) lẽ, Nam - Bắc, dòng trưởng - dòng thứ… Cả hai bà vợ đều yêu quí nhau sau khi đoàn tụ Bắc - Nam từ 1975, người chồng (bố Hồ Thế Hà) cuối đời về ở lại với vợ trước ở miền Nam rồi mất ở cố hương. Sau này mẹ Hồ Thế Hà mất, hai người chôn cạnh nhau như một sự đoàn tụ, chữa lành vết thương của chiến tranh hơn nửa thế kỉ mà dân tộc và gia đình phải gánh chịu. Hồ Thế Hà xem người mẹ sau (mẹ kế) như mẹ ruột, anh em ở miền Bắc như do chính mẹ mình sinh ra. Tôi đã có lần được về thăm mẹ sau của ông tại Vĩnh Phúc, trước khi bà mất, hai mẹ con mừng mừng tủi tủi, trên bàn thờ vẫn treo di ảnh của cha ông. Tôi thấy Hồ Thế Hà cầm tay mẹ lặng lẽ chảy nước mắt. Lịch sử và chiến tranh lấy đi của ông quá nhiều, nhưng cũng bù đắp cho ông được may mắn có đến hai người mẹ.
Có thể nói, mẹ ruột là người có ảnh hưởng nhiều nhất đến tâm hồn và sự hình thành nhân cách của Hồ Thế Hà, do đặc tính lịch sử cha ông đi tập kết rồi ở lại miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hồ Thế Hà tâm sự, mẹ ông là người đã “dạy chữ, hát bài chòi và dân ca, thuộc nhiều ca dao, đã hát và ru tôi từ thuở trong nôi đến những năm thơ ấu. Lớn lên tôi vẫn thuộc những bài ca, câu hát đó đến bây giờ. Cậu ruột tôi, anh tôi và tôi biết làm thơ chính là nhờ những cội nguồn ấy của mẹ và cậu”. Chúng ta có hôm nay một nhà giáo, nhà báo, nhà thơ Hồ Thế Hà chính là từ người mẹ hiền lành có tâm hồn bao la, nghệ sĩ dạt dào mẫu tính ấy. Bề sâu tâm lí, Hồ Thế Hà là một người thiếu cha - thiếu nam tính, sự ảnh hưởng âm nhu từ người mẹ như một tử cung vĩnh hằng bao bọc, chăm sóc thể xác và linh hồn của ông, khiến tính cách sau này của thi nhân luôn dịu dàng, nhẹ nhàng, sâu sắc, tình cảm mang thiên tính nữ.
Cũng chính vì sự quy định tính cách bề sâu nói trên, nên ngày 1 - 1 - 1977 Hồ Thế Hà lựa chọn cho mình nghiệp văn chương, dù ông đã tốt nghiệp PTTH chuyên toán. Sự quy hồi với bản thể đích thực lãng mạn, nhạy cảm, nội tâm của Hồ Thế Hà là tất yếu, bởi chỉ trong văn chương, mà đặc biệt là trong thơ, ông mới cảm thấy được giãi bày, được chia sẻ tâm thức lưu đày truyền kiếp, xuất phát từ nỗi cô đơn phân ly Nam - Bắc, sự ám ảnh người cha ra đi không trở về. Nhưng niềm vui văn chương tại trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là Đại học Khoa học - Đại học Huế) diễn ra chưa lâu, thì cuộc binh biến chiến tranh biên giới Tây Nam diễn ra. Theo lệnh tổng động viên, chàng sinh viên Hồ Thế Hà tháng 8 năm 1978 đã xếp bút nghiên nhập ngũ, đào tạo tại trường quân sự Hà Tĩnh, sau đó di chuyển vào An Giang. Năm 1979, Hồ Thế Hà đã là người lính tham chiến tại chiến trường Campuchia nhằm thực hiện sứ mệnh quốc tế cao cả. Thi nhân trong hoàn cảnh lịch sử khốc liệt đã trở thành quân nhân thực thụ.
Chiến tranh không đơn giản chỉ là diễn ngôn của chiến thắng do người thắng cuộc viết nên. Đằng sau sự lấp lánh của những chiến công và những chiếc huy chương, là biết bao trăn trở, âu lo, ám ảnh chấn thương tinh thần. Ông từng kể: “Nhiều ký ức lẫn lộn, nhưng ký ức sâu nặng, khó quên nhất, đó là sự ác liệt, hy sinh và gian khổ. Biết bao đồng đội đã ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, chưa có người yêu, chưa thực hiện được những ước mơ cao đẹp nhất của tuổi trẻ”. Trong đơn vị, những chàng trai trẻ tuổi mặc áo lính của Hồ Thế Hà rất nhiều người đã hi sinh tại chiến trường Campuchia ác liệt, ông chỉ là số ít sống sót trở về. Chiến tranh là một biểu tượng lấp lửng hai mặt trong cơ chế bề sâu tâm lý của ông. Ở bề mặt ý thức, đó là một niềm tự hào, đặc trưng của mặc cảm Eros; ở bề sâu của tầng vô thức, nó là chấn thương ám ảnh bởi cái chết, sự cô đơn, nỗi nhớ nhà, cái ác tràn lan trên chiến trường, đặc trưng của mặc cảm Thanatos. Cho đến tận tuổi già, chiến tranh đã lùi xa gần 30 năm, nhưng trong những giấc mơ, nó vẫn ám ảnh, sống động, khủng khiếp trong tầng sâu vô thức của Hồ Thế Hà.
Sau chiến tranh biên giới Tây Nam, Hồ Thế Hà lại quay về với giảng đường đại học, ông tiếp tục học với Khóa 5 trường Đại học Tổng hợp Huế, được giữ lại trường năm ông tròn 30 tuổi bởi thành tích xuất sắc. Người quân nhân Hồ Thế Hà nay lại được phép làm thi nhân. Năm 2000, ông bảo vệ luận án tiến sĩ văn học Việt Nam. Năm 2005, ông vinh dự nhận học vị Phó giáo sư văn học và năm 2010 là danh hiệu cao quý Nhà giáo ưu tú. Ngoài ra, ông còn vinh dự nhận được sự tín nhiệm của các cấp để làm thành viên các Hội đồng xét giải thưởng Nhà nước và giải thưởng Hồ Chí Minh, Hội đồng Quỹ Khoa học và công nghệ quốc gia Nafosted (ngành văn), Hội đồng chức danh Giáo sư, Phó giáo sư toàn quốc, Hội đồng Lý luận phê bình của Hội nhà văn Việt Nam, Ban chấp hành Hội Kiều học Việt Nam… Đằng sau tấm màn nhung của những vinh quang, có thể thấy lựa chọn trí thức của Hồ Thế Hà theo hướng văn chương là nhằm giải thoát “cái mình” đầy cô đơn của ông. Trong văn chương và những hội đoàn/hè, Hồ Thế Hà được vừa là “người ham chơi”, lại vừa tạm thời giải thoát được nỗi cô đơn bản thể. Từ trong ngôn ngữ, Hồ Thế Hà lại là một kẻ khiếm khuyết, cô đơn. Thất bại trong tình yêu, cảm thức chiến tranh, chấn thương “mất” cha… đã quy định nhân cách bề sâu của Hồ Thế Hà là kẻ “một mình”, luôn đối diện với chính mình. Bài thơ hay nhất, và có lẽ cũng là nổi tiếng nhất của Hồ Thế Hà chính là bài “Một”: “Em ơi, rượu chỉ một bầu - Thơ thì một túi, nỗi sầu một bao - Tình yêu một biển sóng trào - Nụ hôn đợi một nụ trao nồng nàn - Đời buồn một kiếp lang thang - Em đi một chuyến đò ngang muộn về - Đợi em tàn một cơn mê - Tỉnh ra mới biết mình mê một mình”. Chính vì cô đơn và sợ hãi cô đơn, nên Hồ Thế Hà cần đám đông, cần bạn bè để sẻ chia, giãi bày. Xu hướng “vọng ngoại” của ông không hẳn là nhu cầu tự thân, mà thực chất nó là một cơ chế tâm lí tự vệ để giúp ông chống lại những hố thẳm và bóng tối cô đơn bản thể phía trong mình. Do vậy, nếu muốn hiểu/biết về con người đích thực của Hồ Thế Hà, chúng ta cần quay về với những tác phẩm văn học của ông.
Hồ Thế Hà cho đến nay đã xuất bản 5 tập thơ bao gồm Khoảnh khắc, Nxb Thuận Hóa, 1993; Nghìn trùng, Nxb Thanh Niên, 1994; Xác thu, Nxb Văn học, 1997; Thuyền trăng, Nxb Văn học, 2014; Tơ sương, Nxb Văn học, 2015. Nếu 4 tập thơ trước chứng kiến sự chiếm ưu thế của cái tôi lãng mạn, nhạy cảm, tinh tế đúng với con người bên trong của Hồ Thế Hà, được viết theo những hình thức thơ tiền hiện đại như lục bát, tứ tuyệt, tự do… thì đến tập thơ thứ 5 Tơ sương, Hồ Thế Hà đã thực hiện một cú vượt thoát, cách tân hệ hình thơ sang hẳn hậu hiện đại. Dưới hình thức thơ mini của riêng ông, Hồ Thế Hà đã đưa trò chơi ngôn ngữ, cái hài hậu hiện đại lên ngôi: “ai bảo em là pleiku - sao không plei? - sao không ku?” giả định; “nón bài thơ một bờ sinh - thu cúc thúc ai về ân ái - giáng hương giương hết mùa thơm” chơi chữ; “Haicư - Haicưi - Haicui - Sao không Haicu?” Chính danh (mọi nhấn mạnh đều là của tôi - PTP). Với tập thơ Tơ sương, Hồ Thế Hà hình như đã rũ bỏ được nỗi buồn truyền kiếp. Vậy là, những vết thương tinh thần nằm sâu trong vô thức của ông, sau hơn 30 năm, khi thi nhân đã ở tuổi “Lục thập nhi nhĩ thuận” (60 tuổi) hình như đã được hóa/hòa giải. Người thơ đã tìm thấy niềm vui đích thực bên trong của mình.
Ngoài sáng tạo thi ca, Hồ Thế Hà còn là một nhà khoa học luôn tìm tòi và năng sản như một phu chữ. Địa hạt chữ nghĩa mà ông sở trường nhất là phê bình thơ Việt Nam hiện đại. Tôi đồ rằng ông là một trong số những người thuộc thơ hiện đại nhiều nhất của Việt Nam, với khoảng hơn 500 bài thuộc lòng, ngay cả đối với thơ của… người vợ tần tảo của ông. Sự nghiệp nghiên cứu dày dặn của ông cho đến nay có 7 công trình chính. Bao gồm: Sức bền của thơ, Nxb Hội nhà văn, 1993; Thức cùng trang văn, Nxb Thuận Hóa, 1993; Tìm trong trang viết, Nxb Thuận Hóa, 1997; Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Văn học, 2004; Những khoảnh khắc đồng hiện, Nxb Văn học, 2007; Thao thức thơ, Nxb Thuận Hóa, 1998; Tiếp nhận cấu trúc văn chương, Nxb Văn học, 2014. Hẳn sự nghiệp nghiên cứu của ông vẫn chưa dừng lại ở đây, mà vẫn đang hành trình đến với sự chưa biết, những cái mới, cái khác.
Điều đọng lại trong biết bao thế hệ học trò và đồng nghiệp của Hồ Thế Hà là một nhân cách nhà giáo đẹp và sáng. Luôn yêu thương, ân cần với học trò, sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp, say mê với nghề văn, thế giới quan carnaval nghịch dị, có cảm giác như màu tóc trắng xóa trên đầu ông chưa lúc nào khiến Hồ Thế Hà già đi. Tài sản lớn nhất trong cuộc đời của ông, sau hơn 30 năm trên giảng đường dạy người không mệt mỏi, ngoài người con gái đầu lòng đang là đồng nghiệp và sắp bảo vệ luận án tiến sĩ, đó chính là sự yêu mến của học trò, sự tôn trọng, kính nể của đồng nghiệp. Đúng với tâm sự đau đáu của người thầy đầy tâm huyết với nghề: “Nghề văn là nghề cao quý, nhưng lắm gian nan và hệ lụy. Có được tác phẩm hay phải lao động nghệ thuật say mê và phải huy động nhiều năng lực tư duy khác nhau trên chất liệu ngôn ngữ mà mình lựa chọn. Nhưng ngôn ngữ nhiều khi cũng trở nên bất lực trước sự đỏng đảnh của cảm xúc và suy tưởng mà trong những khoảnh khắc vô thức, chủ thể sáng tạo không thể làm chủ được chúng hoặc ảo tưởng về chúng. Vì vậy, cứu cánh mà người nghệ sĩ dựa vào vẫn lại là ngôn ngữ - ngôn ngữ trong ngôi nhà hữu thức bừng sáng trí tuệ và lấp lánh lời giải đáp của mình về những điều hằng cửu tốt đẹp của cuộc sống và con người”. Xin chúc ông còn đi lại lâu dài trong học giới và thi giới.
P.T.P