Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 05/02/2025 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Nghĩ về mới quan hệ giữ thơ với thời đại của thơ

Bài viết “có một thời đại mới trong thi ca” (văn nghệ số 33, 13-8-1994) của Trần Mạnh Hảo có mục tiêu lớn nhất là khẳng định cho được: trong lịch sử đương đại, thi ca (theo cách gọi của T.M.H) cách mạng đã làm nên một “thời đại mới”  trong toàn bộ lịch sử thi ca Việt Nam. Thiết nghĩ, chúng ta nên tôn trọng ý kiến và mục tiêu lớn nhất của con người phát biểu và những người đồng tình ý kiến này. Có lẽ, lấy một ý kiến cá nhân một nhà thơ mới làm phê bình thơ để mà xác định một hướng quan tâm một vấn đề lớn của lịch sử văn chương xem ra hơi vội vàng và bất tiện. Công việc đặt vấn đề có hay không có một thời đại mới trong thơ Việt Nam nói chung, tôi nghĩ là phải là thẩm quyềncủa tổ chức cao nhất quản lý, thực thi khoa học lịch sử thơ Việt nam. Dù sao thì ý kiến trên của Trần Mạnh Hảo cũng là rất đáng để ý. Vì thế, xin cuộc thảo luận có dành quan tâm đến vấn đề: Có hay không có “một thời đại mới” ở thời đại chúng ta làm nên cho toàn bộ tiến trình đã có của thơ Việt Nam.

Trên thực tế, anh Trần Mạnh Hảo cũng như tất cả những người đồng tình, ủng hộ anh đều chưa đủ công sức khẳng định cho xong rằng “có một thời đại mới trong thi ca”. Nghĩ về thực tế này, tôi đồng ý với ý kiến của anh Phạm Xuân Nguyên trong nhận xét cung cách chứng minh cho luận điểm “có một thời đại mới trong thi ca” của Trần Mạnh Hảo, trong nhiều thập kỷ qua đã có quá nhiều và dường như chúng có đặc quyền ghê gớm trong chiếm lĩnh phát ngôn thi đàn của ta. Có lẽ nếu chịu lắng nghe ý kiến của anh Nguyên phê phán cung cách chứng minh của Trần Mạnh Hảo trong bài viết có một thời đại mới trong thi ca thì chắc chắn có sự kiện đáng ghi nhận này: trong lịch sử đàn thi Việt Nam, anh Trần Mạnh Hảo là nhà phê bình cuối cùng của “Phương pháp luận”  có đẻ được đâu mà đòi đánh” hay…đại loại như vậy theo cách gọi khôi hài của anh Phạm Xuân Nguyên. Nhưng lại có một thực tế này cần phải quan tâm ở đây: thực tiễn thi học hiện đại Việt Nam cũng chưa làm xong (ít nhất cũng là chưa công bố kết luận khoa học bước đầu) công việc xác định. Có hay không có “một thời đại mới trong thi ca”. Nếu tôi nhận xét không lầm thì các nhà lý luận , phê bình với đầy đủ tư cách khoa học của ta, cũng còn rất nhiều khó khăn trong công việc này. Làm khoa học nào cũng phải có một phương pháp không thể thiếu cho cấu tạo tổng thể các phương pháp cần thiết là phương pháp phán đoán, dự cảm. Thiếu phán đoán, dự đoán, dự cảm khoa học thì thôi còn làm khoa học làm gì hay cứ làm thì chỉ được làm thơ- khoa- học mà thôi. Cho nên, biết đâu,ý kiến anh Trần Mạnh Hảo lại chẳng là một phán đoán, dự cảm khoa học thực thụ dù anh Hảo ra xem còn thiếu tin lắm những phương pháp luận khoa học cơ bản, phố cập cho các nhà lý luận, phê bình thơ, vốn ở đời có chuyện: có dự cảm khoa học mà không thực thi được vì thiếu phương pháp khoa học. Thiết nghĩ, nhà khoa học thực thụ cũng là người biết tôn trọng, nhạy cảm với những phán đoán, dự cảm kiểu ấy. Trong cư xử với thơ Việt Nam hiện đại, cả nhà thi học không xa lánh một thực tế lớn: thơ cách mạng (gọi là thơ miền Bắc sau 1954 cũng được), có được chủ thể làm ra nó rất hùng mạnh đã đang và sẽ bênh vực nó. Mối quan hệ giữa nhà lý luận, phê bình với nhà thơ mà anh ta lấy làm đối tượng, có thuận lợi nhiều thì ai cũng thấy nhưng nó có khả năng thường trực gây khó khăn đến đâu thì chắc còn ít người lường hết được. Có lẽ khả năng gây khó khăn này có hai dạng cơ bản: một là, lấy chân lý cuộc sống ra phê phán, đè nén chân lý nghệ thuật (ví dụ như lấy“ngọn cờ”, lấy “máu” ra, chẳng hạn) hai là, chọn lựa, thiên lệch một (hay hai) tiêu chí xác định thành tựu để bênh vực cho “con đẻ của mình” (ví dụ lấy phẩm chất trí tuệ, lương tri thời đại của thơ ca để chủ yếu bênh vực cho thành tựu). Cả hai loại khó khăn này tôi nghĩ , tất cả các nhà thơ và các nhà phê bình thơ đều phải có cố gắng nhanh chóng vượt qua để nhanh chóng công được thái độ và phương pháp khoa học cần thiết công việc cư sử khoa học, công bằng đối với thơ Việt Nam hiện đại. Làm được công việc này là cực kỳ khó khăn. Bởi thế, hiện nay, trong cư xử với thơ Việt Nam  hiện đại, có được những người phụng sự với thái độ, phương pháp khoa học khách quan công bằng là rất đáng quý trọng.

Khi phê phán cung cách viện “ngọn cờ, viện “máu” ra để bệnh vực cho thơ cách mạng của Trần Mạnh Hảo, anh Phạm Xuân Nguyên có lô gích biện chứng vừa khá chặt chẽ vừa khá giản dị. Nhưng trong khi phải nhanh chóng phê phán ý kiến của Trần Mạnh Hảo, Phạm Xuân Nguyên  đã không tránh khỏi sơ suất. Anh Nguyên, dường như, trong mấy câu viết ngắn , có ý thừa nhận (ít nhất là không phủ định hoàn toàn) vai trò vị trí của  “ngọn cờ” và “máu” trong câu chuyện làm ra thơ. Nhưng đọc kỹ lưỡng trước những câu viết ngắn này, chúng ta thấy nhà khoa học Phạm Xuân Nguyên chỉ ưa duy tìm ngay vào phía có bóng dáng thành tựu chứ không cần, hoặc có cần nhưng cần  nhẹ nhàng, thứ yếu thôi, vai trò, vị trí  đặc điểm sinh thành ra thơ, cũng như thành tựu của thơ. Tôi nghĩ, chắc chắn trong phương pháp luận của mình, cơ bản, Anh Nguyên không phải như thế. Anh đã và đang làm công việc xem xét thành tựu nghệ thuật các trào lưu thơ Việt Nam hiện đại. Có lẽ vì trong tổng số chúng, có những trào lưu có thời đại lịch sử khác nhau, nghĩa là vị trí, vai trò sinh cảnh khác nhau, Phạm Xuân Nguyên đã xem xét xong rồi nên…không cần tính đến nữa. Có lẽ là không phải vậy. Vì nếu vậy thì qua cung cách phê phán Trần Mạnh Hảo anh Nguyên đã xa rời một trong những biện chứng pháp tối thiểu: thời đại lịch sử nào có thơ của thời đại lịch sử đó. Thời đại lịch sử là sinh thời của trào lưu thơ nào đó đặc biệt có vai trò vị trí trong tác động hình thành hay không hình thành nổi những thành tựu nghệ thuật của trào lưu đó. Xem ra, anh Nguyên còn hiểu hơi nhanh thoáng ý nghĩa khách quan của cái gọi là “ngọn cờ” và cái gọi là “máu” của Trần Mạnh Hảo. Anh Nguyên ạ “ngọn cờ” và “máu” này chúng ta phải hiểu đó là hai trong số những đặc điểm riêng của thời đại lịch sử của thơ Việt Nam hiện đại. Cố nhiên không phải chỉ là máu và ngọn cờ cá nhân của anh Hảo hoặc anh nào đó đâu. Chúng là: “ngọn-cờ-thời-đại” và “máu-thời-đại” kia mà.

Có lẽ khỏi bàn câu chuyện lấy “ngọn cờ”, lấy “máu” ra bênh vực, phủ nhận thành tựu thơ mà Trần Mạnh Hảo và Phạm Xuân Nguyên đụng phải nhau. Mọi người đã được đọc rõ và ký nhận định tổng quát về thơ Việt Nam hiện đại của Phạm Xuân Nguyên, công bố và “để ngỏ” cuối bài viêt  “.” Nghĩ về thơ và không chỉ về thơ. Tôi đoán chắc, để triệt để chính xác, công bằng, nhà thi học Phạm Xuân Nguyên đã không bỏ qua sự xem xét kỹ lưỡng những đặc thù nghệ thuật (đặc biệt là thi pháp chung) của các trào lưu thơ cách mạng (thơ miền Bắc). Nếu toàn bộ tiến trình xem xét này, anh Nguyên không có ý gì đến vị trí, vai trò tác động làm nên hai đặc điểm riêng cơ bản của thơ cách mạng, rõ nhất là từ những năm 1960, một thiên hướng trí tuệ thời- đại- hóa thơ và, hai là: đời- sống- hóa thơ. Ở đây, vì ít thời giờ, xin cho tôi làm một cách hình dung hai thiên hướng này: thiên hướng trí-tuệ-thời- đại hóa đã có một trong những ngọn cờ tiêu biểu là thơ Chế Lan Viên. Ông này, theo cảm giác của tôi, có thế chưa chắc chắn đúng, anh Hảo coi như một bậc thầy, một thần tượng sáng tạo thi pháp (qua bài viết “Có một...” của anh Hảo).Tôi kiên trì đồng ý cách gọi: con đường trí tuệ hóa thơ của Chế Lan Viên là “con đường trơn lầy” (của nhà phê bình Lê Đình Kỵ). Có lẽ từ Chế Lan Viên và đội ngũ đông đảo những người chịu ảnh hưởng của ông, chúng ta ai cũng hình dung ra thiên hướng trí- tuệ -thời- đại hóa thơ của trào lưu thơ cách mạng. Thiên hướng này có cái được nhưng cũng có cái hỏng, Toàn bộ tiến trình đã có của nó đã qua và sẽ còn tới mục tiêu không ngờ là thì phản -thi. Biểu hiện Phản- thi rõ rệt nhất là các vị đưa luận lý, các phương pháp luận triết học (ví dụ nhơ tam đoạn luận) vào thơ. Cũng vì ít thì giờ ở bài viết này, xin nêu một ví dụ: đoạn thơ của Chế Lan Viên mà Trần Manh Hảo đưa dẫn chứng một cách hùng hồn “phát minh” của Chế Lan Viên là đoạn thơ viết về biển. Đoạn này, Chế Lan Viên chỉ làm công việc phân tích cái màu xanh của biển chứ chưa dựng nổi hình tượng biển. Nói một cách độ lượng, Chế Lan Viên nếu có dựng hình tượng biển thì mới dựng ở dạng phân tích. Ai đời, người đi phân tích cái đẹp của nhân tình mà được gọi là kẻ đã dựng được hình tượng của nàng? Sứ mạng duy nhất cao cả của thơ là sứ mạng tạo dựng hình tượng chứ đâu phải là sứ mạng phân tích hình tượng đời sống! Như vậy, chắc Phạm Xuân Nguyên, trong khi quan tâm xem xét thơ cách mạng, chắc chắn có xem xét đến thiên hướng trí -tuệ- thời- đại hóa của nó. Tôi đoán chắc (đoán thôi vì đã được đọc toàn bộ công trình của anh Nguyên đâu) anh Nguyên phải tính đến chuyện vì sao “ngọn cờ” lại không đưa thơ cách mạng ra khỏi cảnh “nội xác” của thơ mới? Làm công việc này mà thành đạt thì vĩ đại và thú vị biết bao. Thiên hướng “đời – sông hóa thi ca, thực chất là thiên hướng “vị nhân sinh” nhưng nó có đặc thù riêng của thơ cách mạng. Trước hết là làm nên cai TA trong thơ cách mạng. Hình như anh Vũ Quân Phương có chớm nói tới cái hạn chế của cái TA này trong trường hợp nói về Tố Hữu. Một đạo diến nữa của thiên hướng “đời sống hóa” thơ là đưa chất liệu đời sống càng tươi rói càng tốt vào thơ, là đưa những phát hiện tình, ý của đời sống tâm lý xã hội vào thơ, càng sáng tỏ nguyên chất phát hiện càng tốt…Thiên hướng này không sao tránh khỏi tiến trình thực dụng hóa thơ một cách sa đà. Đầy rẫy những hình tượng nguyên dạng văn xuôi, văn vần trong thơ được người ta khoái trí trầm trồ là… Hình tượng thơ tuyệt vời, độc đáo. Có lẽ thiên hướng đời sống hóa thơ có cái mạnh, cái được, nhưng chắc chắn có cái này là hỏng: đưa thơ sà xuống văn xuôi, đẻ ra một “loại thơ” mà ta gọi là “thơ văn xuôi”. Làm gì trong cõi sống loài người lại có thơ văn xuôi! Có chăng nó là văn xuôi viết văn và không cách dòng cho câu đấy thôi.

Như vậy, với công việc của Phạm Xuân Nguyên, khi xem xét thơ cách mạng không thoát khỏi “xác” thơ mới, chắc chắn phải tính đến ngã đường tìm thoát của hai thiên hướng kể trên. Không nên xem nhẹ, xem thường sinh cảnh của trào lưu thơ nào đâu, anh Nguyên ạ. Chắc chắn khi anh xem xét nhóm Xuân Thu nhã tập và nhóm Sáng tạo, cũng không thể không để ý đến “ngọn cờ” và đến “máu” của họ (tôi lưu ý, “máu”trong những trường hợp này cũng là yếu tố trả giá, chứ không phải “máu” nghĩa đen, của chúng).

Bây giờ, xin cho tôi bàn đại lược về nhận định tổng quát về thơ Việt Nam hiện đại của anh Phạm Xuân Nguyên. Cũng lưu ý, tôi chỉ xin bàn luận đại lược với tư cách là bạn đọc thơ mà thôi vì tôi chẳng có “nhà” gì cả. Anh Nguyên chê anh Hảo đồng nhất “thơ chống Mỹ” với “thơ của các nhà thơ chống Mỹ”. Nhưng anh Nguyên lại phạm một sai lầm tương tự: đồng nhất một số cuộc tìm tòi”với các “Xuân Thu Nhã Tập và nhóm Sáng Tạo”. Rõ ràng “cuộc” và “nhóm” tuy có thống nhất nhưng cũng không nên đồng nhất. Bởi vì làm như vậy là có nguy cơ tổn thương đến phương pháp luận, đặc biệt đến lô-gích biện chứng. Theo anh Nguyên, thơ cách mạng chưa thoát “xác” thơ mới. Anh cho là “hiện nay đang hình thanh một cuộc vận động đổi mới theo hướng thoát “xác thơ mới”. Tôi hình dung, anh Nguyên hình dung chưa đúng lắm về cuộc vận động này. Hình như tôi xin mạo muội hình dung thôi các nhà thơ hiện nay, đặc biệt là các bạn trẻ làm thơ rất ít vốn liếng thực tiễn về thơ mới và thi pháp của nó thế mà lại có cuộc vận động nhằm thoát xác nó thì e hơi kỳ lạ. Khốn nỗi, tôi nói, các nhà thơ trẻ đừng giận,các bạn đã mấy ai tìm thấy rõ cái đường tơ mỏng manh là biên giới phân nội, ngoại xác của thơ mới mà cứ hăng hái tự nhận là đi thoát xác nó! Anh Nguyên bảo: thơ chốngPháp, thơ chống Mỹ không có chuyện đi tìm lối thoát xác thơ mới hay sao? Thế anh có chấp nhận thơ cách mạng có chủ tâm tìm lối thoát xác mới hay không? Chắc anh có chấp nhận, nhưng là chấp nhận nó có tìm mà chưa thoát được. Thế mà anh lại bảo: hiện nay đang có…” nghĩa là trước đây chưa có. Hình như trong diễn đạt của anh có cái gì đó sơ hở, chưa chặt chẽ, chính xác? Cũng như lưu ý ở đây, “nằm trong vòng thơ mới” với “chịu ảnh hưởng thơ mới” là khác nhau”. Nằm trong vòng là chịu ảnh hưởng, chịu chi phối tuyệt đối còn  “chịu ảnh hưởng” thì không phải là chịu ảnh hưởng, chi phối tuyệt đối. Chuyện này phiền lắm đối với nhà khoa học. Một trào lưu thơ chỉ chịu ảnh hưởng ngoài xác thơ mới thôi (nghĩa là không tuyệt đối, thì nó phải là nó, nó chỉ chịu ảnh hưởng ít nhiều thì nó vẫn là nó. Ví dụ như: vợ anh nào đấy có ảnh hưởng không tuyệt đối anh ấy thì chị ta vẫn là chị ta  ấy mà và có thể còn khả năng chịu ảnh hưởng của anh khác không phải là chồng mình! chắc anh Nguyên cho là chỉ có hai nhóm Xuân Thu Nhã Tập và Sáng tạo là nằm ngoài xác thơ mới và chịu ảnh hưởng của thơ mới mà thôi. Xem ra, anh Nguyên cũng nên diễn đạt lại cho dứt khoát hơn dù chỉ là diễn đạt dưới dạng hình dung.

Là một bạn đọc có say mê thú vị hai anh Trần Mạnh Hảo và Phạm Xuân Nguyên, tôi xin phép cứ chân quê, một mạc thổ lộ cảm giác hơi lo lắng này; xác minh có hay không có đổi mới hình thức nghệ thuật thơ là chuyện còn quá to tát với cả hai anh. Hai anh đã và sẽ làm được thì chúng tôi rất mừng. Tôi còn lo nữa là hình như các nhà thi học Việt Nam ta hay mắc cái tật sợ hãi và xa lánh bản thể luận trong tổng số các phương pháp khoa học cần có để làm thi học. Chắc anh Phạm Xuân Nguyên không ở không trường hợp này. Tôi hình dung anh Nguyên cơ bản và chủ yếu xem xét đổi mới có hay không đổi mới hình thức nghệ thuật thơ. Nói chất lượng thơ là chất lượng hình tượng thơ “cũng là nói nguyên tắc bao trùm nhất để xem xét có hay không có nghệ thuật thơ. Bởi vì bản chất của thơ đừng nên hy vọng tìm thấy ngoài bản chất hình tượng thơ. Chờ có dại gì mà xa rời nguyên tắc này, quên các cấu trúc vĩnh cửu của hình tượng thơ mà chuyên tâm vào ngôn từ, lớp lang ngôn từ thuần túy để tránh xa những hiểm họa nhận thức khôn lường. Tôi có thật cảm giác lo lắng như đã thổ lộ. Chắc đến khi được đọc cả công trình của anh Phạm Xuân Nguyên, chắc chắn tôi sẽ hết lo, sẽ thở vào nhẹ nhõm. Nhân đây cũng xin anh Hảo và anh Nguyên, chúng ta đừng gọi thơ là thi ca nữa, yếu tố “ca” có nguy cơ làm hại phẩm giá  của thơ đấy. Ở đời có nhiều thứ là “ca” lắm mà chả phải là thơ. Thơ đích thực chả thấy “ca” gì cả!  

                                                                         21-8-1994

                                                                            N.D.C

Nguyễn Dương Côn
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 10 tháng 07/1995

Mới nhất

Thành phố Đông Hà sôi nổi giải cờ tướng, đẩy gậy và các trò chơi dân gian mừng Đảng, mừng xuân Ất Tỵ 2025

5 Giờ trước

TCCVO - Sáng 5/2/2025, thành phố Đông Hà tổ chức giải cờ tướng, đẩy gậy và các trò chơi dân gian mừng Đảng, mừng Xuân Ất Tỵ 2025. Giải đấu thu hút gần 150 vận động viên (VĐV) nam, nữ đến từ 9 phường trên địa bàn thành phố.

Chương trình nghệ thuật đặc biệt mừng Đảng, mừng Xuân Ất Tỵ 2025

8 Giờ trước

TCCVO - Tối ngày 28/01/2025 (29 tháng Chạp), tại Quảng trường Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh Quảng Trị, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức chương trình nghệ thuật đặc biệt mừng Đảng, mừng Xuân Ất Tỵ 2025 với chủ đề “Khát vọng vươn mình”. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hoàng Nam cùng đông đảo người dân địa phương đến dự.

Thành lập Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Quảng Trị

04/02/2025 lúc 08:35

Sáng ngày 3/2, Tỉnh ủy Quảng Trị tổ chức hội nghị công bố quyết định thành lập Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy.

Ngày xuân về Gio Mỹ xem lễ hội cướp cù

02/02/2025 lúc 09:50

TCCVO - Ngày 1/2/2025 (mồng 4 Tết), tại làng An Mỹ, xã Gio Mỹ, huyện Gio Linh (Quảng Trị) đã diễn ra lễ

Ban Chính sách với sứ mệnh kết nối thiêng liêng (Kỳ 2)

01/02/2025 lúc 11:01

Ban Chính sách, Phòng Chính Trị, Bộ Chỉ huy Quân sự (CHQS) tỉnh Quảng Trị được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, không chỉ hỗ trợ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ mà còn thực hiện các chế độ chính sách đối với người có công với cách mạng...

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

06/02

25° - 27°

Mưa

07/02

24° - 26°

Mưa

08/02

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground