B |
ên kia sông Cái là một xóm chài nhỏ với những chiếc thuyền gỗ nằm sát vào nhau, và phía sau đó không xa, nơi có con dốc thoai thoải dẫn lên là những khu vườn rậm rạp, xanh thẳm. Còn bên này, phía bờ Bắc là bãi bồi, vào tháng hai, với những nương bắp vào thì con gái, nối nhau, trải dài, tít tắp một màu xanh non. Quê Hằng ở đó, bên bờ Bắc và chị sống bằng nghề đưa đò tại bến sông này từ lâu lắm rồi, rất lâu, sau khi chiến tranh kết thúc vài năm, khi mà chú của chị - ông Tư Quới, người lái đò ở bến này đã qua đời, để con thuyền chở khách lại cho chị.
Ngày nối ngày, mỗi khi có người sang sông, chị đẩy thuyền ra, chèo đi. Tiếng mái chèo chạm vào cạnh thuyền, tạo nên âm thanh lạch cạch, lạch cạch, đơn điệu, tiếng mạnh, tiếng nhẹ, nối tiếp nhau, đã theo chị hết xuân sang hè, hết thu sang đông, lúc mưa, lúc nắng. Khi vắng khách, chị thường gác chèo ở đầu thuyền rồi bước lên, ngồi đợi ở cái lán nhỏ che tạm bằng mấy tấm tranh nằm giữa bãi cát.
- Đò ơ…ơ…ơi!
Thường những lúc ngồi đợi như thế Hằng lại nghĩ về Cường - người chồng chưa cưới đã biền biệt tin tức của chị. Và rồi, mỗi lần ở bờ bên kia có tiếng gọi đò, chị lại chèo thuyền sang với niềm hy vọng có thể đó là Cường chồng chị đã về. Nhưng niềm hy vọng mỗi ngày vừa được nhen nhóm bỗng vụt tắt để rồi hôm sau chị lại nhen nhóm một niềm hy vọng mới. Cường còn sống hay đã chết? Hay anh là người bội bạc không hề nhớ đến chị và đứa con trai của họ? Chị đã từng đặt những câu hỏi như thế không biết bao nhiêu lần, nhưng chị biết hỏi để mà hỏi vì không có ai chung quanh có thể giúp chị câu trả lời. Đôi khi quá mệt mỏi, chị tự khuyên mình, hãy quên đi. Nhưng làm sao chị có thể quên được. Ngay trên bãi cát này đây ngày xưa Cường và chị đã hẹn hò. Đúng vậy, ngay trên bãi cát của bến sông này đây anh và chị đã ngồi bên nhau. Hằng còn nhớ rất rõ, dạo đó, chị mới bước vào tuổi mười chín và sau cuộc Tổng tấn công mùa xuân năm Mậu Thân, đơn vị của Cường đã về đứng chân ngay trong thôn của chị. Cường là người khá đẹp trai, tính tình lại trông rất hiền lành, chính vì thế, sau một thời gian quen biết, anh đã tỏ lời yêu đương và Hằng đã nhận lời mà không gợn chút nghi ngờ. Tối tối, họ bí mật gặp nhau ở bãi cát bên bờ sông, nơi gần đó có cây đa khá to, xòe tán lá rậm rạp. Tình yêu của một đôi trai gái còn quá trẻ ở họ đã bùng cháy và cả hai do không có kinh nghiệm, lại không kìm chế được để rồi chị đã mang thai.
Ngày đó, chiến tranh đang diễn ra ác liệt, chuyện yêu đương dẫn đến có thai đối với một chiến sĩ trẻ, đặc biệt là chiến sĩ đang làm nhiệm vụ ở một đơn vị an ninh như Cường là điều không nên. Biết rõ điều đó nên Cường rất lo, và Hằng cũng lo không kém. Cuối cùng cả hai bàn bạc với nhau, giấu kín chuyện này, không cho đơn vị Cường biết, và họ quyết định để thêm một thời gian nữa cả hai sẽ tìm cách giải quyết cho ổn thỏa. Nhưng rồi đơn vị của Cường có quyết định chuyển gấp xuống vùng sâu, một địa phương nằm ven thành phố. Đêm trước ngày chia tay, Hằng đã khóc rất nhiều. Cường ôm chặt lấy chị và an ủi, dỗ dành. Anh bảo chị, sau chuyến công tác xuống vùng sâu, anh sẽ quay lại.
Nhưng cũng từ đó chiến tranh ngày một ác liệt thêm. Quê Hằng, vùng đất nằm dưới chân Hòn Cối đã trở thành vùng trắng. Ngày bom, đêm pháo. Những bờ tre vườn chuối bị xe tăng Mỹ cày nát. Hằng, mẹ Hằng và tất cả bà con, dân chúng trong xã bị địch bắt vào sống tại các trại tập trung ở các Khu dồn. Làm thế nào bây giờ? Tại khu dồn, đêm đêm Hằng lại đã khóc thầm. Điều khổ tâm nhất đối với chị là chuyện gì sẽ xảy ra khi mẹ mình biết mọi chuyện. Ba Hằng mất từ khi chị lên mười, mẹ chị một mình nuôi chị, vậy mà bây giờ… Đắn đo mãi và rồi không thể khác, một ngày kia Hằng đành nói thật với mẹ khi cái bụng đã to không thể giấu ai được nữa. Đau khổ, giận con nhưng mẹ của Hằng đã cắn răng chịu đựng và hằng ngày bà tìm cách làm thuê, để dành, lo cho chị sinh nở. Hằng đã sinh được một đứa con trai đặt tên là Phước. Mặc dù đói khổ nhưng thằng bé lớn nhanh và ngày càng tỏ ra rất nhanh nhẹn, lanh lợi.
Năm một chín bảy lăm, chiến tranh kết thúc, nhà nhà mừng vui. Từ khu dồn trở về quê cũ, chị và đứa con trai đã chờ. Trong khi xung quanh, làng trên, xóm dưới, rất nhiều người đi tham gia kháng chiến đã về, người ở xa chưa về được thì cũng thư từ hoặc nhờ kẻ báo tin, riêng chị thì không. Ngày nối ngày Cường của chị vẫn biệt tăm…
- Nói thật mẹ nghe, có phải thằng Phước đúng là con của cái chú Cường đóng quân ở xóm ta ngày trước hay là con của ai?
Hằng biết mẹ mình nghi ngờ. Chị gật đầu nhưng nước mắt rưng rưng. Chị đã đọc được trong mắt mẹ câu hỏi: Nếu đúng là chú ấy mà sao chiến tranh hết rồi vẫn không thấy quay trở lại?
Câu hỏi của mẹ làm chị thấy lòng xót xa. Càng xót xa hơn, khi trong xóm có người vì bực bội chuyện gì đó của bọn nhỏ, đã ác miệng chửi thằng Phước con trai chị là đồ con hoang, là đồ con không cha.
* * *
- Đò ơ…ơ…ơi!
Những câu hỏi thắt lòng luôn hiện lên cùng những nhịp chèo của chị.
Những câu hỏi không có câu trả lời. Cường của chị đã hy sinh hay vì lý do nào đó nên không quay lại vùng đất xa xôi này để tìm mẹ con chị? Hay anh đã quên tất cả rồi?
Chị nhớ ngày yêu nhau, anh có cho chị biết anh là người từ Thanh Hóa vào và đang công tác tại một đơn vị an ninh của khu. Sau ngày giải phóng một thời gian, trong nỗi chờ mong mà không có kết quả, chị đã đôi lần lên xã dò hỏi và những người quen đã cho chị biết, ở vùng quê của họ thời chiến tranh thỉnh thoảng có cả lực lượng an ninh của tỉnh cũng như an ninh của khu về công tác hoặc đóng quân lại. Chị cũng được biết, khi hết chiến tranh, cơ quan an ninh cấp khu đã giải thể, không còn nữa; ở cấp tỉnh, cơ quan an ninh cũng đã được
- Biết chừng đâu?
Nghe người thương binh nói, lòng chị lại rộn lên niềm hy vọng.
* * *
- Đò ơ…ơ…ơi!
Lại những chuyến đò ngang với những tiếng chèo khua lạch cạch.
Lại mấy năm nữa trôi đi.
Không hề có tin của Cường và cũng không hề có tin của người thương binh đã có lần hứa sẽ giúp chị.
Chán nản, chị tự bảo mình, thôi, không chờ, không đợi, không nghĩ nữa. Thế mà khi gác mái chèo, lòng chị lại nặng trĩu.
Chiều nay, đang ngồi trong cái lán nhỏ giữa bãi cát với tâm trạng ấy, bất chợt có tiếng gọi đò và chị liền cho thuyền sang bên kia sông. Có hai người đàn ông trên bến và khi thấy chị, cả hai vội vàng chạy xuống. Một trong số hai người đàn ông ấy chính là Quân - anh thương binh mà chị đã đưa sang sông ngày nào. Chưa kịp tay bắt mặt mừng, khi mới nghe Quân thông báo đã tìm được tin tức của Cường, bỗng dưng chị thấy người mình chao đảo. Có thật vậy không…?
Tim đập mạnh và mắt chị bất chợt tối lại…
… Tôi là một phóng viên đi lấy tư liệu viết bài cho báo và đến bến sông ấy đúng vào lúc người đàn bà lái đò bị ngất xỉu vì xúc động. Không có cách nào khác, tôi phải giúp hai người đàn ông ấy cấp cứu, giúp cho người lái đò tỉnh lại và đưa chị về nhà mình ở phía bên kia. Tôi đã trò chuyện với người thương binh, nhờ đó, biết được những gì diễn ra với cuộc đời người đàn bà lái đò, và cũng qua người thương binh tên Quân, tôi mới biết được, sau mấy năm vất vả, lặn lội, anh đã tìm được những tin tức về một chiến sĩ an ninh đã hy sinh. Thì ra, sau khi chia tay Hằng xuống công tác ở vùng sâu một thời gian, đến năm 1970, Cường đã được an ninh Khu 5 điều về tăng cường cho một đơn vị trong ngành tại Phú Yên. Thời gian này, tại địa bàn công tác mới của Cường, đám ác ôn thuộc lực lượng Phượng Hoàng - một lực lượng tình báo hổn hợp tại miền
Đó là một ngày tháng Tư nắng ấm ở vùng đất dưới chân Hòn Cối, nơi ấy có một dòng sông và một bến đò…
H.N.T