Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 05/05/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Nhà văn và cách đọc mới lý luận văn nghệ đương đại

T

ư duy mới đòi hỏi lý luận văn nghệ không chỉ sáng tạo những kiến giải mới mẻ, đáp ứng những vấn đề cập nhật do đời sống xã hội, đời sống sáng tạo văn học, nghệ thuật đặt ra, mà còn phải rà soát lại một số luận đề cơ bản, vốn là những giá trị trong hệ thống lý luận, mỹ học mác – xít, nay cần được bảo vệ và phát trển như thế nào để đúng hướng theo tinh thần của NQ V TW (khóa 8) và NQ 23 của Bộ Chính trị (khóa X). Bài viết này xin nêu hai vấn đề:

I. Cần có cách đọc mới chủ nghĩa Mác – Lênin (trong đó có mỹ học, lý luận văn nghệ)

Trong triết lý phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa Mác – Lênin là thế giới quan khoa học, là vũ khí của người lao động đứng lên giành quyền sống. Học thuyết này ra đời ở Tây Âu, mà Châu Âu hay phương Tây chưa phải là tất cả nhân loại. Vì vậy việc nắm vững chân lý phổ biến đòi hỏi sự sáng tạo trong điều kiện của dân tộc mình là một nguyên tắc. Bác viết: “Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới mẻ rút ra từ thực tiễn sinh động… phải cụ thể hóa chủ nghĩa Mác – Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng nước, từng nơi”. (Hồ Chí Minh, tập 8, nxb Chính trị quốc gia, 1996, tr.46). Trong quá trình lãnh đạo của Đảng ta, các nhà lý luận đã tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin phần lớn là đúng đắn, có sáng tạo, nhưng do nhiều lẻ, không tránh khỏi nhận thức sai lệch bóp méo, thậm chí xuyên tạc. Do động cơ vụ lợi hoặc duy ý chí một số nhà sáng tác, nhà quản lý đã biến những câu chữ thành những khái niệm xơ cứng, máy móc, kết quả là tự trói buộc mình và trói buộc đời sống sáng tạo.

Trước hết hãy nói đến những luận điểm vẫn có giá trị trường tồn của mỹ học mácxíts. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc trong văn hóa có quan hệ mật thiết với tính nhân loại phổ biến, khẳng định bản chất của văn hóa là “năng lực bản chất người”, tính nhân loại của văn hóa. Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản (1848) Mác và Ăngghen viết: “… những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không tồn tại được nữa mà từ những nền văn học dân tộc và địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở một nền văn học toàn thế giới”. (Mác và Ăngghen toàn tập, nxb CTQG, tập 4 tr.602). Đoạn văn trên có ý nghĩa thời sự cho đên hôm nay, khi nước ta bước vào hội nhập với thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Lâu nay chúng ta thường trích dẫn luận điểm của Mác trong Luận cương về Phơbách cho rằng, “bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”, rồi phê phán sự thiếu hụt của Người khi nói đến bản chất con người. Thật ra Mác đã sớm nói đến “tính dục là sức mạnh bản chất của con người”. Trong Bản thảo kinh tế - triết học (1844) Người viết: “Quan hệ nam nữ là quan hệ trực tiếp, tự nhiên và tất yếu giữa người với người. Trong quan hệ tự nhiên này, mối quan hệ giữa người với người bao hàm quan hệ giữa người và tự nhiên, tức là sự qui định tự nhiên đối với bản thân nó”. Như vậy Mác đã khẳng định con người vừa là sinh vật xã hội và là sinh vật tự nhiên. Hiểu đúng luận điểm này giúp chúng ta có cơ sở để nhận thức con người trên bốn bình diện: tinh thần – đạo đức; triết học – lịch sử (truyền thống văn hóa, quá khứ, hiện tại, tương lai); tâm linh – siêu hình; triết học sinh thái.

Trong lịch sử phát triển văn hóa nhân loại có một định đề xuyên suốt các thời đại đó là sự quan hệ khăng khít giữa triết học, nghệ thuật, và tôn giáo. Ở các tác phẩm lớn của các bậc thầy văn hóa, các nghệ sĩ lớn, chúng ta tìm thấy nhiều hiện tượng chứng minh cho mối quan hệ “của trục tam giác” này. Ở đây chỉ xin nêu nên hiểu đúng tôn giáo qua nhận thức của Mác, Ăngghen, Lênin. Sau khi phê phán những hạn chế của L. Phơ bách (1804 – 1872) khi ông hòa tan bản chất tôn giáo  và bản chất con người, Mác nói nhiều đến bản chất và chức năng xã hội của tôn giáo, coi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân…” Để hiểu câu nói này nên tìm hiểu bối cảnh lịch sử nước Đức thời đó, khi nền quân chủ chuyên chế là lực lượng bảo thủ mà trong đó Giáo hội Thiên chúa La Mã đóng vai trò tiêu biểu. Khi nói đến “sự nghèo nàn của tôn giáo, một mặt là sự biểu hiện sự nghèo nàn của hiện thực, mặt khác là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn của hiện thực; Mác đã coi tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức… tôn giáo là bông hoa giả để điểm trang cho xiềng xích”. Còn Ph. Ăngghen trong Chống Đuy rinh thì coi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh cái hư ảo vào đầu óc con người… chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức sức mạnh siều trần thế. Với V.I. Lênin “Tôn giáo là liều thuốc ru ngủ nhân dân”. Trong bối cảnh giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô thì vấn đề tôn giáo chưa phải là hàng đầu, mà hàng đầu phải là chính trị và kinh tế. Chuyện có thiên đường – địa ngục, thần thánh là vấn đề của thần học, của triết học; nhưng với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, Nhà nước quan tâm tới tôn giáo ở pháp luật và chính trị. Như vậy vấn đề tôn giáo luôn luôn gắn liền với quan điểm lịch sử cụ thể của từng giai cấp, từng dân tộc, tính quốc tế của tôn giáo và ngày nay là tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa. Người kế thừa V. I. Lênin bàn về tôn giáo là M. Gorki. Ông có những kiến giải hợp lý khi cho rằng, trên thực tế, trí tuệ không có ở Thượng đế, mà ở con người… Giả sử rằng Thượng đế là biểu tượng của mọi người thì không có lý gì để chống Thượng đế. Đằng này Thượng đế chỉ là cái thiện cho những kẻ củng cố quyền lực. “Thượng đế chỉ là sự bịa đặt và bịa đặt rất vụng, nhằm củng cố quyền lực của con người đối với con người và chỉ cần cho người chủ, còn đối với người lao động thì Thượng đế là kẻ thù ra mặt”.

Tính đảng là khái niệm xuất hiện khá sớm kể từ khi có chủ nghĩa Mác. Ph. Ăngghen nói đến tính huynh hướng trong văn nghệ, coi ông tổ của bi kịch Etsin, ông tổ hài kịch Arixtophan là những nhà thơ có tính khuynh hướng, Đăngtơ và Xécvăngtex cũng thế. Ưu điểm của Âm mưu và tình yêu (Sinle) là vở kịch có khuynh hướng chính trị đầu tiên ở Đức v.v… V.I. Lênin phát triển nguyên tắc tính đảng trong văn học nghệ thuật trong điều kiện đấu tranh giai cấp quyết liệt.Tính đảng đi liền với phe đảng nên mới có tính đảng vô sản và tính đảng tư sản. Tác phẩm: Tổ chức của Đảng và văn học có tính đảng ra đời năm 1905 đòi hỏi “sự nghiệp văn học phải trở thành một bộ phận khăng khít của công tác tổ chức, có kế hoạch, thống nhất của Đảng dân chủ xã hội”. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với sự nghiệp văn học ,nhưng tránh “sự cào bằng máy móc, sự san bằng của số đông thống trị số ít… tiệt đối phải bảo đảm phạm vi hết sức rộng rãi cho sáng kiến cá nhân, cho khuynh hướng cá nhân, cho tư tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và nội dung”.

Như vậy, tính đảng là phạm trù mỹ học được coi là một phẩm chất nghệ thuật là động cơ, nội lực sáng tạo của văn nghệ sĩ, đã nhiều thập kỷ qua, được Đảng ta vận dụng. Tuy nhiên trong quá trình nhận thức không thể không có những suy nghĩ thiếu hụt: Một là đồng nhất tính đảng với ý thức hệ, từ đó cách hiểu thế giới quan của nghệ sĩ chỉ bó hẹp trong yêu tố chính trị mà không tính đến các yếu tố triết học, mỹ học, tôn giáo, niềm tin thị hiếu, tâm lý, cá tính của nghệ sĩ dẫn đến sự gò bó, sự chật hẹp trong việc đánh giá tác giả, tác phẩm, nhất là ở các nghệ sĩ có thế giới quan phức tạp. Về thật ngữ văn học Đảng (partinaia lifératura) nếu chỉ hiểu là văn học thì không đúng với văn bản, mà là văn kiện, một nghĩa rộng hơn trong tiếng Nga, bởi trong công trình của mình, Lênin không chỉ nói đến nhà văn, mà còn là các nhà triết học, ký giả, nhà chính luận, và rộng nữa là bối cảnh đấu tranh tư tưởng và tinh thần giữa các đảng phái tư sản và đảng xã hội – dân chủ Nga.

Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dùng thuật ngữ tính đảng trong diễn văn khai mạc lớp lý luận khóa I Nguyễn Ái Quốc (1957) trong bài Đạo đức cách mạng (1958), Đảng tính trong bài Xem Viện bảo tàng cách mạng(1959); Còn trước đó, thì Bác dùng tính đoàn thể…Tất cả các thuật ngữ này đều gắn liền với công tác tu dưỡng đạo đức của cán bộ nói chung, chưa thấy dấu hiệu gì liên quan tới phạm trù mỹ học. Nhiều thập kỷ gần đây, trên các văn kện chính thức của Đảng, Nhà nước cũng thấy ít dùng các thuật ngữ tính đảng. Nếu không hiểu đúng ngọn nguồn lịch sử, bối cảnh lịch sử cụ thể để sử dụng thuật ngữ tính đảng của từng nước, sợ rằng, một phạm trù mỹ học biến thành một thuật ngữ cưỡng chế như có thời kỳ ở nước ta, có người dù vô tình hay hữu ý coi tính đảng là đảng trị. Trong tình hình hiện nay việc sử dụng phạm trù tính đảng còn là vấn đề mở.

Mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa, văn nghệ là mối quan hệ giữa hai hình thái ý thức, mỗi một hình thái đều có tính độc lập tương đối. Nói cho cùng thì trong bất cứ thể chế chính trị tiến bộ nào những nhà lãnh đạo cũng đều coi trọng văn hóa, văn nghệ dưới nhiều dạng thức khác nhau. Bởi chính trị mà thiếu văn hóa là thứ chính trị tha hóa, còn văn hóa, văn nghệ mà thiếu chính trị là mất phương hướng. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, dù là nền kinh tế thị trường theo, dù là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì những giá trị tinh thần (trong đó có những giá trị văn nghệ) phải được coi trọng như những giá trị vật chất, nếu không muốn nói là hơn. Vì vậy, chính trị thông minh, sáng suốt phải soi đường chỉ lối cho sáng tạo văn nghệ, tạo mọi điều kiện cho tự do sáng tạo, cho tài năng phát triển, cho cảm hứng nghệ sĩ được thăng hoa để sớm có những tác phẩm hay, được người đọc đón đợi. Chính trị hóa văn nghệ, không coi trọng đặc trưng thẩm mỹ của tác phẩm, hành chính hóa cơ chế quản lý văn nghệ v.v… là sai lầm của một thời. Nhưng từ đó, gần đây, tại một, hai cuộc hội thảo, một vài người cho rằng, đường lối văn nghệ của Đảng không nằm trong phạm trù khoa lý luận văn nghệ, thì lại là một sai lầm khác, dù phát biểu dưới bất cứ động cơ nào. Ý kiến đó nếu được xuất bản là một bước thụt lùi của tư duy mới. Họ cứ thiên kiến nghĩ rằng, hễ là đường lối, nhất là đường lối văn nghệ, thì bao giờ cũng bị chính trị hóa. Chỉ cần nêu ra một sự kiện ra đời của Nghị quyết V (khóa VIII) vềXây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998) thì rõ. Nghị quyết Trung ương V là kết tinh trí tuệ của khoảng 50 nhà văn lớn, nhà khoa học tiêu biểu, nhà quản lý cấp Trung ương, trong đó có 9 giáo sư về lý luận văn học, văn hóa học, nghệ thuật học được Ban tư tưởng và văn hóa Trung ương triệu tập để chuẩn bị tọa đàm, khảo sát tư liệu, xây dựng đề cương, chấp bút, trau dồi văn phong của văn kiện trong vòng trên dưới một năm. Đó không chỉ là văn kiện có tính chất đường lối lâu dài trên lĩnh vực văn hóa, mà là một văn bản triết – mỹ mang đầy đủ phẩm chấtChân Thiện Mỹ, dân tộc – hiện đại của một nền văn hóa có chiều dày lịch sử mấy nghìn năm.

Trở lên, chúng tôi có nói đến sự bóp méo câu chữ do cách hiểu hoặc do công việc dịch thuật mà nhiều định đề của chủ nghĩa Mác – Lênein bị nhận thức chưa đầy đủ. Ví dụ: Lâu nay, trong một số giáo trình chúng ta thường rao giảng quá ư giản lược công thức của Lênin: Chủ nghĩa xã hội = chính quyền xô viết + điện khí hóa. Thật ra, trong bản đề cương cho bài Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền xô viết, sau khi nói đến một nền sản xuất lớn cơ khí, một mạng lưới đường sắt, bưu điện viễn thông tương đối phát triển, một trình độ văn hóa, trình độ học vấn cần thiết, nâng cao năng suất lao động và phân phối sản phẩm xã hội, Người nêu định đề: “Dùng cả hai tay mà hứng lấy những cái tốt nhất của nước ngoài: Chính quyền xô viết + trật tự ở đường sắt Phổ  + kỹ thuật và cách tổ chức các tơrớt ở Mỹ, ngành giáo dục quốc dân Mỹ v.v… và v.v… + Ʃ = chủ nghĩa xã hội” (V.I. Lênin toàn tập, nxb Tiến bộ, tập 36, tr.684). Điều đó thấy rõ trong thời kỳ tân kinh tế, Lênin đặt câu hỏi chúng ta thiếu cái gì? Trình độ văn hóa!!! Trình độ học vấn cần thiết và tài năng!

II. Phát huy những giá trị mỹ học và lý luận văn nghệ dân tộc.

Nền mỹ học dân tộc ta có đủ những phạm trù cơ bản: Cái đẹp, cái bi, cái hài, cái hùng, cái cao cả, cái thấp hèn v.v… nhưng khi đi vào văn chương, nghệ thuật, nếu so với các dân tộc khác thì chúng có cái vừa tương đồng, vừa dị biệt, có mặt định thái vừa có mặt biến thái, vừa tĩnh vừa động. Khảo sát kỹ điều vừa nói, chúng tôi thấy có ba phạm trù nổi trội. Đó là cái hùng (chứ không phải cái thượng võ, cái hiếu chiến); cái bi dừng lại ở mức thước, cái cao cả (hay cái tuyệt vời) thể hiện tính hòa hiếu ở bản chất. Chúng được chuyển hóa cho phù hợp với cốt cách, bản lĩnh, phong thái người Việt Nam. Nam Quốc Sơn hà (Lý Thường Kiệt), Hịch tương sĩ (Trần Hưng Đạo), Phú Bạch Đằng (Trương Hán Siêu), Phò giá về kinh (Trần Quang Khải), Qua sông Bạch Đằng (Phạm Sứ Mạnh), thơ văn Nguyễn Trải, chiếu, biểu, hịch của Quang Trung v.v… không mang chất thượng võ, hiếu chiến, răn đe. Những khẩu hiệu “sát thát” hay “gươm núi Sóc, cọc Bạch Đằng” chỉ là chuyện tình thế. Cái hùng mang âm hưởng lòng yêu nước, ý thức tự cường của người anh hùng có kích thước cao rộng, đầu óc mưu lược đã đánh bại kẻ thù. Cái bi mang tính bi hùng. Môtíp “giết nghịch tử” (trong tuồng Tam nữ đồ Vương), môtíp “sát thân” trong Ngoại tổ dâng đầu của Viên Hòa Ngạn để cứu hoàng tử, môtíp “bất tử” của Khương Linh Tá bị giặc chém đầu vẫn tự lắp đầu lại và hóa thành ngọn đuốc soi đường cho Đổng Kim Lân đưa ấu chúa vượt đèo về Sơn Hậu v.v… là những biểu tượng mẫu thực về thi pháp miêu tả cái bi. Đó là những cái chết vì nghĩa lớn, phản ánh triết lý nhân sinh dân gian: “Chết là thể phách, hồn là tinh anh”. Ngay cả môtíp “hóa đá” trong nhiều chuyện nôm khuyết danh như Hòn Vọng phu, truyện Trầu Cau cũng là những biểu hiện cái bị “bất tử” trong cách xử lý nghệ thuật.

Bản chất hòa hiếu khu trú có hệ thống trong thơ văn Nguyễn Trãi. Trong phú Núi Chi Linh chúng ta đọc: Giữ hòa hiếu cho hai nước/ Tắt muôn đời chiến tranh/ Chỉ cần vẹn đất cốt sao an ninh. Với Bình Ngô đại cáo thì tư tưởng chủ đạo là sách lược “lấy yếu chống mạnh”, “lấy ít địch nhiều”, dùng chính sách tâm công để thắng địch, lấy đại nghĩa trí nhân mà thắng hung tàn, cường bạo. Và mục tiêu cao nhất khi kẻ địch muốn “Thực sự cầu hòa”, khi ta cần “cho dân được nghĩ” là để mở “nền thái bình bền vững”, “bốn biển lặng yên”

Cái cao cả trong nhiều tác phẩm của Quang Trung là cử chỉ ngoại giao song phương, hai bên đều có lợi, chứ không phải bên cầu xin, bên ban ơn. Mục tiêu cao nhất của hòa hiếu là giữ vững lãnh thổ, quốc thái dân an. Chiếu lên ngôi, Biểu đòi lại bảng châu xứ Hưng Hóa thể hiện tinh thần đó. Lời lẽ nhã nhặn, lịch thiệp nhưng nội dung thì không nhân nhượng, khi cõi Nam Bang được phân chia nhận làm phên giậu, bốn phía có ranh giới đã ghi trong sách quy.

Vốn giàu có trong kho tàng di sản cổ điển là lợi thế của lý luận văn nghệ đương đại. Đó là “tài sản vô giá gắn kết cộng đồng, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, là cơ sở để tạo ra những giá trị mới” (Nghị quyết Trung Ương V, khóa VIII, 1998) nhưng do cha ông ta không quen làm lý luận văn học, nghệ thuật học, không hay lập thuyết để lại cho đời sau; lại nữa, do sự hủy hoại của thiên nhiên, sức tàn phá của những cơn binh lửa, nên di sản lý luận quá ít, ít đến bâng khuâng! Những gì còn lại chúng ta có thể kể đến một số giá trị như phương pháp hiện thực tả ý, phép biện chứng của thuyết âm dương ứng dụng vào nghệ thuật, những tố chất nhân văn, tân kỳ trong tản văn, truyện lịch sử, ký sự, những quan niệm về văn chương giúp đời của Ngô Thì Nhậm (1747 - 1803); về mối quan hệ giữa đạo và đời và coi việc giáo hóa là trước nhất của Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780), về lời khuyên “đọc muôn quyển sách, đi muôn dặm trường” của Phan Huy VỊnh (1800 - 1870), về lời giáo huấn của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 - 1784) “… Phải viết có nội dung là đạo thì văn chương phát đạt, không thì hỗn loạn; viết có nội dung thì văn chương thịnh, không như thế thì suy…” v.v… và v.v… đều là những giá trị bền vững, những bài học cho lý luận văn nghệ đương đại, khi nền văn nghệ nước nhà đang vừa phải giữ vững bản lĩnh, bản sắc dân tộc, vừa kỳ vọng thâm nhập sâu vào thế giới của nhiều nền văn minh.

 

H.S.V

 

HỒ SĨ VỊNH
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 202 tháng 07/2011

Mới nhất

Hòn ngọc Bali giữa biển xanh

30/04/2024 lúc 17:44

 Người Việt đi du lịch Bali, hầu như chỉ biết đến những bãi tắm xa

Tự do xanh quá, mênh mông quá

30/04/2024 lúc 04:11

Thơ ca không phải là ghi chép lại lịch sử nhưng lịch sử qua thơ mang một vẻ đẹp bất ngờ và độc đáo không thể hình dung hết. Tuy nhiên, để làm được điều đó, thi sĩ phải thực sự tài năng và có cơ hội tiếp cận được hiện thực lộng lẫy trong những thời khắc có một không hai của lịch sử. Hai mươi năm đánh trận trường kỳ, cả dân tộc không đêm nào ngủ được, cả dân tộc hành quân ra trận, cả dân tộc đội triệu tấn bom để hái mặt trời và có ngày Chiến thắng 30 tháng tư năm 1975, cũng là ngày mở ra cánh cửa hòa bình, thống nhất non sông cho đất nước.

Trên đất đồi đã thôi thuốc súng

28/04/2024 lúc 16:38

Để thấy sự hồi sinh của một vùng đất, đôi khi phải làm khách vãng lai quan sát. Nhận ra

Mùa hoa chêng đỏ

28/04/2024 lúc 16:33

Chưa bao giờ chêng nghĩ mình là một loài hoa được nâng niu, chiều chuộng, cũng không mơ được

Trận pháo kích Cứ điểm 241

28/04/2024 lúc 16:31

Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn đã sụp đổ, miền

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

06/05

25° - 27°

Mưa

07/05

24° - 26°

Mưa

08/05

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground