Ở |
các vĩ nhân lịch sử và danh nhân văn hoá thế giới, sự kế thừa và sự hội nhập giữa các trào lưu tư tưởng triết học là một qui luật phổ biến. Nhưng cuối cùng những cái tiếp nhận được là những kết quả mang lại điều lợi ích cho nhân dân mình, dân tộc mình, thời đại mình. V.l. Lênin đã ý thức rất sớm điều đó trên quan điểm lợi ích. Ngay từ năm 1908, Người viết: “Tôi cho rằng, người nghệ sĩ có thể tìm thấy cho mình nhiều điều có lợi trong bất cứ triết học nào” (Toàn tập, tập 47, trang 143, tiếng Nga). Đó cũng là nhận thức của Hồ Chủ tịch khi tiếp cận với các trào lưu triết học Phương Đông. Điều này thấy rõ trong nhiều sáng tác vào những năm 40 và nhất là trong những bài nói, văn chính luận đề cập đến đạo đức, lối sống, nhân phẩm của con người mới Việt
Nho giáo đã có ở Trung Quốc hơn 2.000 năm nay. Vào Việt
Có trung hếui, nên đứng trong trời đất
(Nguyễn Công Trứ)
Trai thời trung hiếu làm đầu
(Nguyễn Đình Chiểu)
Có luân thường mà chủ yếu là ngũ thường: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín và chữ nhân được coi là phạm trù chủ đạo của năm đức tính ấy. Hồ Chủ tịch không nói tiếp thu mà nói cụ thể và khái quát theo những đòi hỏi mới: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Theo chúng tôi hiểu, trong sáu đức tính cần thiết cho cán bộ cách mạng, chữ nhân được Hồ Chủ tịch nâng thành một triết lý: Chủ nghĩa nhân đạo cách mạng. Chữ nhân mà Bác Hồ thường dùng là lợi ích của con người, là sự phát triển toàn diện của con người. Ham muốn tột cùng của Người là “Đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” chứ không dừng lại ở sự ban phát ân huệ như giảm thuế, ân xá phạm nhân, tôn trọng người già, quan tâm đến thế hệ trẻ, trọng dụng nhân tài. Bởi vì chỉ có những hành động nhân đạo này thì chữ nhân của chủ nghĩa Mác không cao hơn chữ nhân của giai cấp phong kiến. Theo giáo sư Trần Văn Giàu, một câu của đoạn Vi Chính trong sách Luận ngữ, Không Tử nói: “Làm chính trị mà dùng đức thì ví như sao Bắc Đẩu, cứ đứng nguyên một chỗ mà các sao khác hướng chầu về”. . . Đó là nền chính trị “đức hoá”, chính trị theo đạo nhân, một bước tiến của lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại .Trong phạm trù “đức hoá” mà Hồ Chủ tịch tâm đắc có lẽ là ý này của Khổng Tử: “Người có nước có nhà không sợ ít của mà chỉ sợ không đều, không sợ ít dân, chỉ sợ không yên ổn; vì rằng, chia đều thì sẽ không nghèo, hoà mục thì sẽ không ít, yên ổn thì sẽ không nghiêng đổ”. Thì ai cũng dễ liên tưởng câu của Bác Hồ nói đến công bằng xã hội: “Không sợ thiếu mà sợ phân phối không đều, không sợ nghèo mà sợ lòng dân không yên”.
Nói Hồ Chủ tịch đến với Phật giáo và tôn trọng Phật giáo là nói những khía cạnh cấp tiến của thứ tôn giáo này. Người coi Đức Phật là đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn; là vị chí tôn, nên chúng ta tin tưởng(2). Phật giáo cũng có bề dày lịch sử 3.000 năm, thì cũng tồn tại ở Việt
Triết lý của Đạo giáo có ảnh hưởng phần nào đến triết lý sống và nhân cách của Hồ Chủ tịch. Nói đến Đạo giáo, một số người thường nghĩ đến thuyết “Vô vi” theo nghĩa tiêu cực. Thực ra, thuyết “vô vi” của Lão Tử cũng có những yếu tố tích cực. Ông nói: Nếu ta vô vi thì nhân dân tự nhiên ngay thẳng, lòng dân hư không, không dục vọng. Đã có vô vi là có hữu vi. Sách Đạo đức kinh viết: “Nhân dân sở dĩ khó cai trị vì kẻ cầm quyền tích cực hữu vi... Ruộng hoang, kho trống, vậy mà cung thất hoa lệ, mặc gấm mang gươm, ăn món ăn ngon vật lạ, tích luỹ nhiều của riêng, đó là kẻ trộm cướp”. Nếu xét theo những khía cạnh đó thì tư tưởng của Hồ Chủ tịch không xa lạ với tư tưởng Đạo giáo vừa nêu. Chữ “đạo” mà về sau bị Trang Tử thần bí hoá vốn có gốc là “quy luật tự nhiên”. Tự Đức nhận xét, trong tư tưởng Đạo giáo thì trăm cái đều sai, chỉ được mỗi cái đúng, đó là tôn thiên nhiên. Các bậc chân nhân của Đạo giáo thường có lối sống rất “biết điều”... “được ít không chê, được nhiều không mừng”, “ngủ không mộng mị, thức không lo buồn, ăn không cần ngon”, “tâm hồn sáng suốt, dung mạo bình thản”, ‘trán không bị nhăn”, “lặng lẽ như mùa thu, ấm áp như mùa xuân, vui vẽ với bốn mùa, hợp cùng với ngoại vật...”. Mối quan hệ mẫu mực giữa con người với thiên nhiên được tìm thấy ở Hồ Chí Minh. Ở Người đã hình thành một hệ thống ý niệm sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Ở Người, tình cảm đặc biệt đối với thiên nhiên không chỉ dừng lại ở cảm hứng sáng tạo thi ca, ở triết lý sống cao thượng và thanh bạch không màng lợi ích vật chất, vì một lý tưởng nhân văn cao đẹp. Chỉ riêng lĩnh vực này, ở nhà thơ Hồ Chí Minh, một bậc túc nho, có cả một hệ thống trong thơ trữ tình: Sống giữa thiên nhiên (xem sách chim rừng vào cửa đậu); hoà quyện với thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm cảm hứng sáng tạo (những mô típ trăng, sao, rặng đào, tuyết trắng, mùa thu, chim rừng, nắng sớm, mây bay); nhân cách hoá thiên nhiên (Trăng vào cửa sổ đòi thơ, Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm) để hỏi chuyện, để giãi bày. Trong thơ trữ tình của Người, cảnh và tình, thiên nhiên và con người ôm quyện lấy nhau. Cảnh nên thơ, trữ tình sinh ra tình cảm bồi hồi lai láng nhớ nước, nhớ bạn:
Núi ấp ôm mây, mây ấp núi
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ
Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh
Trông lại trời
(Mới ra tù tập leo núi)
Hơn thế nữa, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên là một hệ thống đặc biệt. Ngay từ cuối những năm 50, tại Hội nghị Thủy lợi toàn miền Bắc, Hồ Chủ .tịch nói: “Việt
lâm nghiệp thì đốn gỗ, chặt cây phải đi đôi đặc biệt với việc “trồng cây, gây rừng”... Tư tưởng biện chứng đó của Hồ Chí Minh mang đậm ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa triết học văn hoá. Ngày nay chúng ta đang kế thừa xuất sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, đất nước mới có những dự án trồng rừng ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, chủ trương “Sống chung với lũ” ở đồng bằng sông Cửu Long, cải tạo môi trường sinh thái ở vùng cát ven biển miền Trung để trồng cây ăn quả v.v... Cốt cách, dung mạo lối sống của Bác Hồ không xa lạ, có dáng dấp đôi nét của các bức chân nhân, hiền triết phương Đông thủa trước. Nhiều người giải thích Bác Hồ phục sức giản dị, ăn uống đạm bạc, không thích sống trong cảnh gác tía lầu son, mà thích ở trong nhà sàn bằng gỗ đơn sơ giữa Thủ đô nhộn nhịp là vì Người nghĩ đến đất nước còn khó khăn. Điều đó chỉ đúng một phần, phần quan trọng hơn là Người theo đuổi triết lý sống nhân văn cho mình và cho mọi người. Triết lý sống đó, bản lĩnh độc đáo đó của một bậc túc nho, của một nhà thơ còn thể hiện ở mỗi ước mong, đôi khi cũng rất giản dị, rất đời thường lại được diễn đạt có pha màu sắc của Đạo giáo:
- Không bệnh là tiên, sướng tuyệt trần.
- Ăn khỏe, ngủ ngon, làm việc khoẻ.
- Trần mà như thế khác gì tiên.
Nhiều chính khách, văn nhân, nước ngoài thường gọi Bác Hồ là vị tiên, ông già tiên phương Đông không phải là không có lý. Và hơn thế nữa như một đạo sĩ chân chính, một đạo sĩ khác xa với các bậc danh nho, ẩn sĩ ưu thời mẫn thế, muốn thoát tục do không may trên đường đời mà lui về với thú vui ẩn dật. Ngược lại, ông già tiên này vẫn hoạt động cách mạng, vẫn làm thơ, vẫn nhập thế cho đến hơi thở cuối cùng.
Kỷ niệm 35 năm ngày Bác về với tổ tiên
H. S.V