X |
ét tiến trình văn học viết Việt
Chỉ từ khi nước nhà giành được độc lập vào thế kỷ thứ X, chữ Nôm mới hình thành rõ rệt. (Trước đó đã có văn học chữ Hán, tuy nhiên số lượng tác giả, tác phẩm chưa nhiều, chất lượng văn học cũng chưa cao). Tác giả văn học Nôm là trí thức Hán học, họ làm thơ Nôm, viết văn Nôm trên cơ sở kinh nghiệm Hán học và văn học chữ Hán. Vì viết bằng tiếng Việt, các tác giả tiếp thu được truyền thống ngôn ngữ, truyền thống văn học cổ, trong đó có truyền thống văn học dân gian.
Từ thế kỷ XIII, đã có những tác giả văn học Nôm như Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố. Sau đó là Hồ Quý Ly,
Sau thế kỷ XVI, tiếp đến thế kỷ XVII văn học Nôm càng phát triển mạnh. Dễ nhớ ra được những tác giả sau đây: Nguyễn Giản Thanh, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Hàng, Đào Duy Từ, v.v…
Thật là không gnowf, nhưng chính lại là qui luật tất yếu, sang đến thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, văn học Nôm phát triển vượt bậc, như một sự nhảy vọt lạ lùng. Văn học chữ Hán cũng phồn thịnh, nhưng thấy rõ hơn là văn học chữ Nôm đột biến về số lượng và chất lượng. Văn học Nôm gần như là dòng văn học chủ đạo lúc này. Văn học Nôm đạt độ sắc sảo, nhuần nhụy, khoáng đạt, bứt phá. Chúng ta tìm thấy ở những năm tháng này nhiều tác phẩm văn học Nôm có giá trị, đó là bản dịch Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, tiếp đến là thơ Hồ Xuân Hương, là Truyện Kiều bất hủ. Sự ra đời của bản dịch tài hoa Chinh phụ ngâm (sau năm 1740) đánh dấu sự trưởng thành của văn học tiếng Việt, báo hiệu hơn 50 năm sau ra đời Truyện Kiều, như vừa nêu. Văn học Nôm phát triển đến mức làm tổn hại đến kỷ cương của Nhà nước phong kiến đang ở giai đoạn suy vi, khiến chúa Trịnh phải ra lệnh cấm. Văn học Nôm làm trỗi dậy ý thức phản phòng, ý thức yêu chuộng quốc âm, ý thức dân chủ, ý thức đòi hỏi quyền được bộc lộ tình cảm chân thật. Văn học Nôm đi sau vào nhân dân, nói chuyện đời thường (Hồ Xuân Hương), đồng thời trở thành mẫu mực, cổ điển (Nguyễn Du).
Văn học chỉ có sức sống và tồn tại lâu dài khi nó trở về đúng nơi nó đã được xinh ra: Cuộc sống của con người với bao nỗi niềm buồn vui, thăng trầm của số phận, của thời cuộc. Văn học chữ Hán không làm được việc này. Văn học Nôm nói được những vấn đề sau đây mà văn học chữ Hán không nói được, hoặc có đề cập chút ít thì cũng không thể đến với những người không biết âm Hán – Việt:
- Tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, những khát khao về hạnh phúc.
- Nhu cầu giải trí, thụ cảm nghệ thuật, văn hóa.
- Khung cảnh đời sống thường ngày bình dị.
- Những khát khao ở mức nào đó và lẽ sống, đời người, nhục thể hoặc thân phận.
- Hiện thực xã hội muôn vẻ khác
- Khai thác nội dung từ dân gian.
Nội dung mới của văn học Nôm kéo theo sự phát triển, hoàn thiện của các thể loại văn học đạm sắc màu bản địa. Truyện Nôm phát triển, không ít những truyện ghi dấu ấn sâu đạm vào giai đoạn văn học trọng đại đáng nhớ:Phan Trần, Nhị Độ Mai, Bích Câu Kỳ Ngộ, Quan Âm Thị Kính, Sơ Kính Tân Trang, Hoa Tiên (của Nguyễn Thiện), Hoa Tiên (của Nguyễn Huy Tự). Hầu hết các tác giả đều có ý thức xây dựng truyện kể. Có thể nói, những tác phẩm truyện Nôm ấy là manh nha của tiểu thuyết văn xuôi sau này. Đỉnh cao là Truyện Kiều, một thành tựu chói lọi của ăn xuôi nghệ thuật và thơ lục bát. Như vậy, truyện thơ được cả về truyện, cả về thơ. Thơ lục bát, song thất lục bát đến thế kỷ XVIII đã nhuần nhị, mượt mà. Truyện thơ Nôm khuyết danh và hữu danh đóng góp đáng kể vào kho tàng văn học viết Việt
Khúc ngâm và hát nói phát triển để chuyển tải nội dung mới. Thể ngâm khúc đáp ứng nhu cầu đồng cảm với những thân phận rủi ro, mất mát, những khao khát tự do ở một mức độ nhất đinh, nói chung là đáp ứng nhu cầu được san sẻ nỗi niềm, được yêu thương, muốn đồng cảm của con người, điều mà văn học chữ Hán không làm được. hát nói đáp ứng nhu cầu giải trí, sinh hoạt văn hóa, tinh thần muôn vẻ, điều mà văn học chữ Hán không quan tâm.
Như vậy, trên thực tế, tuy văn học chữ Nôm ra đời sau văn học chữ Hán nhưng văn học chữ Nôm cùng ngày càng phát triển mạnh và có đỉnh cao, làm suy giảm ảnh hưởng của văn học chữ Hán. Đây là một hiện tượng văn học mang tính lịch sử. Hiện tượng này có những nguyên nhân bên ngoài và nguyên nhân nội tại của văn học.
1. Quy luật khách quan của lịch sử đã quy định hiện tượng này. Văn học chữ Hán chủ yếu là văn học của giai cấp phong kiến, chỉ quẩn quanh ở văn, thơ, phú lục nhằm phục vụ chính quyền đương thời. Văn học chữ Hán có những ưu điểm mà các dòng văn học khác cần phải kế thừa. Tuy nhiên, nó đã không thể tồn tại tiếp tục khi mà xã hội phong kiến đến lúc phải chấm dứt, khi mà xã hội mới, xã hội của đông đảo nhân dân tiến tới làm chủ số phận mình, đã mở ra. Văn học Nôm gắn với nhân dân, gắn với dân tộc nhiều hơn.
Từ nguyên nhân đó, dẫn đến các nguyên nhân tiếp theo, khiến văn học Nôm phát triển rực rỡ và khẳng định mình.
2. Cảm hứng sáng tạo mới mẻ, phù hợp với sự phát triển khách quan của thời đại, của lịch sử. Chúng ta đã thấy, nội dung văn học chữ Nôm mới do cảm hứng sáng rác của tác giả là mới, bỏ lại phía sau những xúc cảm và suy nghĩ cung đình, những khát khao trung quân ái quốc, thái bình thịnh trị.
3. Thể loại mới, được bổ sung và hoàn thiện nhanh chóng. Những thể loại hát nói, truyện thơ, khúc ngâm đưa lại cho nền văn học nước nhà một sinh khí mới. Dễ thấy nhất là truyện thơ (xét về góc độ tiểu thuyết sơ khai) và thơ ca (xét về góc độ thể thơ trong truyện thơ, khúc ngâm, hát nói). Thể loại mới này của văn học chữ Nôm có mặt mạnh là phản ánh được nhiều mặt của hiện thực xã hội và hiện thực con người.
4. Văn học chữ Nôm góp phần lớn làm cho ngôn ngữ văn học phát triển. Văn học chữ Nôm có tiếp thu cách sử dụng ngôn ngữ của văn học chữ Hán. Tuy nhiên, văn học chữ Nôm có văn tự riêng của dân tộc Đại Việt, ghi âm tiếng mẹ đẻ, cho nên đạt tới độ chính xác cao khi diễn đạt, có giá trị biểu cảm cao khi nói đến hiện thực đời sống của nhân dân ở xã hội mới, một xã hội mà chế độ phong kiến đang dần dần tàn lụi. Thơ Nguyễn Trã tiêu biểu cho trạng thái của tiếng Việt nghệ thuật thế kỷ XV. Thành công của Nguyễn Trãi tạo ra yếu tố tinh thần quan trọng là lòng tin đối với tiếng Việt. Đến Nguyễn Du, tiếng Việt nghệ thuật đã phát triển đến một mức độ cao, mà ngày nay, đọc lại Truyện Kiều, chúng ta vẫn chưa hết ngỡ ngàng.
5. VĂn học chữ Nôm tiếp tục thu hoạch vốn văn hóa, văn học dân gian. Văn hóa, văn học dân gian là nguồn suối trong mát chảy suốt lịch trình dân tộc, nó tiếp sức sống cho văn học chữ Nôm. Văn học chữ Nôm đến được với nhân dân, óng ánh sắc màu, giàu sức biêu cảm mới lạ chính vì đã giao thoa với văn hóa, văn học dân gian.
Văn học dân tộc, muốn phát triển, trước tiên và cuối cùng phải gắn với những cái gì thuộc dân tộc. Văn học Chữ Nôm át văn học chữ Hán, góp phần gợi mở cho nền văn học sau này trưởng thành ở những bước cao hơn, là vì vậy.
P.Đ.Â