Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 20/04/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Văn hóa thời đại

Hiện thực chiến tranh và số phận người lính trong truyện ngắn của Văn Xương

16/01/2022 lúc 21:41






T





rở về từ chiến trường biên giới phía Bắc, Văn Xương làm cán bộ dân sự, vì thế anh rất có lợi thế là được đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều ngành, nhiều tầng lớp nên anh hiểu sâu sắc đời sống, tâm tư người lao động, đặc biệt là những người lính trở về sau chiến tranh. Bên cạnh đó, kí ức, di họa của chiến tranh luôn ám ảnh không nguôi, lèn chặt trong anh. Sống trên mảnh đất một thời máu lửa, khốc liệt nhất của đất nước, và những gì anh được kinh trải đã thôi thúc anh cầm bút. Cũng như nhiều nhà văn khác, trước tiên anh dè dặt thử bút bằng những truyện ngắn như Một thời kỷ niệm, Hoa gạo đỏ bên sông, Huyền thoại một con đường, Nơi gặp gỡ của số phận.. sau này anh tập hợp lại thành tập truyện ngắn Hoa gạo đỏ bên sông (NXB Hội Nhà văn, 2006). Những truyện ngắn này gây sự chú ý đến độc giả, được bạn đọc quan tâm, bởi sự giàu có về vốn sống, sự trải nghiệm, những hiểu biết cặn kẽ, am tường về con người, vùng đất, chiến trường và người lính nơi mảnh đất anh sinh thành bằng giọng điệu nhẹ nhàng, chân chất và mộc mạc. Anh đã có lần tâm sự: Tập truyện ngắn Hoa gạo đỏ bên sông ra đời từ sự đòi hỏi của đời sống chiến tranh, và những hiện thực dồn nén choán chật tâm hồn buộc phải tìm cách viết ra những trang văn nóng hổi về cuộc chiến, về người lính.
 Hoà tấu cùng nguồn mạch ấy, Văn Xương tiếp tục ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Hồn trầm. Qua đó, chứng tỏ được trường lực thẩm mĩ của mình. Với vốn sống dồi dào, bút lực mạnh mẽ đã thể hiện được phẩm chất, “nội lực” của người viết truyện ngắn, biết tự làm chủ vốn liếng của mình và khai thác, chọn lọc, đầu tư một cách đúng mức trong việc thể hiện hiện thực chiến tranh và người lính. Văn Xương từng thể hiện quan niệm của mình thông qua lời kể chuyện của nhân vật trung tâm trong Hoài vọng: “Đi tìm một ý tưởng mới lạ, sáng tạo để tránh những lối mòn cũ; dám vượt qua những vùng nhạy cảm, cố hữu để nhìn nhận một cách tường tận, toàn diện, chân thực về chiến tranh?!”.
            Như thế trên hành trình sáng tạo của Văn xương, đề tài chiến tranh và người lính được anh dành sự quan tâm đặc biệt. Thực ra, đề tài chiến tranh được các nhà truyện ngắn đương đại quan tâm. Chiến tranh luôn gắn liền với số phận đau thương của dân tộc, là nơi gửi gắm tâm sự của những người cầm súng đã từng chứng kiến bao sự hi sinh của đồng đội, đồng bào, và cũng là nguồn cho thế hệ sau tiếp tục khai vỡ. Chiến tranh như một nỗi ám ảnh, một vết thương rỉ máu, khó lành, và thế giới hiện đại vẫn đang từng giờ, từng ngày nóng bỏng cuộc chiến giữa các sắc tộc. Với tài năng, bản lĩnh và cá tính sáng tạo Văn Xương đã tự xây dựng cho mình một phong cách nghệ thuật với những nét độc đáo riêng trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh và số phận người lính.
Là một nhà văn trong cuộc, một nhân chứng bước ra từ cuộc chiến, Văn Xương nhìn chiến tranh không chỉ bằng những tấm huy chương, những bản anh hùng ca... Chiến tranh hiện lên với tất cả sự tàn khốc, sự bi thảm, sự ghê rợn, hãi hùng... nữa. Nó không chỉ bi tráng, bi hùng, mà còn là bi thảm... Qua truyện ngắn, Văn Xương đã tái hiện những gì khốc liệt nhất, đau thương, tối tăm nhất của chiến tranh đều được phơi bày một cách trầm trụi, thẳng thắn và nhiều gai góc.
Với đời người, tuổi trẻ mãi là quá khứ, hoài niệm đẹp. Trong hoàn cảnh có chiến tranh, thật tự nhiên và không suy tính, những chàng trai, cô gái thanh xuân ở những làng quê như Long (Hoài vọng) Minh (Chuyện già bản Tà Thiêng), Vinh (Cây Lộc Vừng), Tùng (Lung linh sóng nước), Dũng(Đối mặt với thời gian)... tình nguyện lên đường nhập ngũ. Nhưng chiến tranh có sự nghiệt ngã riêng của nó. Những người lính trực tiếp đối diện với nó trở thành nạn nhân đầu tiên. Nó cuốn theo hàng vạn sinh linh. Chiến tranh hiện hình qua cái chết những người lính trẻ đầy thương tâm: “Nhiều người bị ném lên khung trung, xé tướp ra từng mảnh, bám đầy cỏ rác, bụi bặm, vùi dập vào những đống đất, đá, gạch vụn; nhiều người bị nướng cháy nham nhở dưới chiến hào, công sự hay quằn qoại chết vì trúng những mảnh bom, pháo”, “Một số người tử trận, thi thể đầm đìa máu. Tiếng kêu la quằn lại, đau đớn của người bị thương”. Nhiều khi cả trung đoàn, tiểu đội chỉ sót lại một vài người: “Tiểu đội Minh bị rơi vào ổ phục kích của địch. Sáu người hi sinh. Minh và năm người còn lại sa vào tay địch. Chúng đánh đập hết sức giả man”...
 
 
 

Quảng Trị và tôi

16/01/2022 lúc 21:41






N





ăm nay, tròn 35 năm ngày thống nhất đất nước. Song với những người lính sinh viên và giáo viên đại học nhập ngũ ngày 06/9/1971, thì niềm vui giải phóng đã đến từ tháng Tư năm 1972 ở Quảng Trị. Họ người thì là lính chiến đấu ở sư đoàn 325. Người thì ở những đơn vị hậu cần, thông tin, công binh phục vụ chiến dịch. Vui nhất là họ đã tụ quần với nhau những ngày đầu giải phóng Quảng Trị. Lúc ấy, tôi bắt đầu tập làm thơ. Bây giờ giở lại cuốn sổ tay ngày đó, mới nhớ rằng mình đã từng làm một bài thơ ngày Quảng Trị giải phóng. Bài thơ tên là: “Ngọn lửa mùa hè”. Bài thơ của một người mới tập làm thơ thật nhiều “lỗi kỹ thuật” nó thực sự chỉ là một trang nhật ký bằng thơ giữa không gian nồng khét khói súng.
NGỌN LỬA MÙA HÈ
 
Anh đi giữa trưa hè thị xã
Nắng biển mặn mà rộn rã vây quanh
Màu áo xanh hòa lẫn sắc lá xanh
Đường phố ngập tràn màu xanh bóng nắng
 
Quê hương ơi! Bao tháng ngày cay đắng
26 năm đã tìm được một ngày
Anh lại trở về từ một buổi chia tay
Chẳng nói nên lời, lệ cười trên mí mắt
 
Mới hôm nao phố phường còn xám ngắt
Đời ngậm ngùi, nhức nhói vết giày đinh
Đạp lên những chi khu, căn cứ địch
Anh mang nắng về gọi đất mẹ hồi sinh
Nắng trưa hè ngời thép súng lung linh
Nắng tỏa từ ngực anh ban trưa thêm sắc lửa
Nắng tìm về tận ngõ sâu, phố đổ
Giữa bộn bề anh có thấy tương lai
 
Lửa bén bùng đỏ thắm sắc cờ bay
Từ Cổ Thành lửa chia về mọi ngả
Mang hồn lửa cầu vồng từ ngọn súng tay ai
Lửa học trò phượng nghiêng nghiêng cửa sổ
 
Lửa tình yêu nhóm nhen từ lửa hoa
Cùng lửa cờ múa reo cùng lửa nắng
Bừng cháy giữa miền đất đại chiến thắng
Ngọn lửa mùa hè ấp ủ tự bao năm
 
Và trưa nay đang cùng anh hành quân…
Bài thơ đầy lạc quan. Nhưng sự thực của “Mùa hè đỏ lửa” diễn ra sau đó khốc liệt đến nỗi không thể tưởng tượng nổi. Quảng Trị thành nơi tranh chấp đẫm máu giữa hai bên liên quan tới Hội Nghị Paris đang đi tới quyết định ngừng bắn, lập lại hòa bình tại Việt Nam. Và cuối cùng thì sông Thạch Hãn trở thành giới tuyến tạm thời từ năm 1972 đến năm 1975.
Sau ngày thống nhất đất nước, đầu năm 1977, đơn vị tôi được cử ra Quảng Trị để xây dựng đường dây quân sự nối thông từ Quảng Bình đến Phú Bài (Huế). Những ngày mưa ẩm ướt của mùa xuân 1977, tôi mới có dịp chứng kiến lại những tàn phá, đổ nát của “mùa hè đỏ lửa” 1972 mà khi ấy, hầu như vẫn còn nguyên hiện trạng giữa một cuộc sống mới bắt đầu nhú mầm hồi sinh. Những chiều lang thang bên bờ sông Thạch Hãn thật buồn. Luôn luôn có cảm giác bước chân mình đang chạm vào anh linh những người đã hy sinh ở Cổ Thành nhiều đến mức không sao đếm xiết. Vậy là bài thơ “Nhớ nắng” đã từng được in trên tạp chí “Văn nghệ Bình - Trị - Thiên”...
 
 
 

Ký ức nằm vùng

16/01/2022 lúc 21:41






Ô





ng năm nay vào tuổi tám mươi. Tên ông là Lê Văn Hoan. Mười sáu tuổi vào dân quân, rồi bộ đội. Đảng viên khi chưa đủ tuổi 18. Hoạt động ở vùng tạm bị chiếm (quê ông, tỉnh Quảng Trị, bị Pháp chiếm đóng từ đầu năm 1947). Tháng 7 năm 1954, thi hành Hiệp định Genève, bộ đội, cán bộ ta ở phía Nam vĩ tuyến 17 tập kết ra Bắc. Ông được phân công ở lại, “sinh sống làm ăn như mọi người dân bình thường”. Và ông đã ở lại, đã công tác suốt ba mươi năm, từ 1954 cho đến khi nước nhà thống nhất. Ba mươi năm bám trụ dải đất hẹp miền Trung, trừ mấy lần được cấp trên đưa ra miền Bắc học tập, chữa bệnh ngắn hạn.
Quá nhiều người ở làng quê ông biết mặt, thuộc họ tên, gia đình tung tích Việt cộng Lê Văn Hoan, tên thật là Lê Đình Mỵ. Ông bị đối phương săn lùng dữ dội, ngay từ đợt tố cộng đợt 1. Tỉnh Quảng Trị, phần từ phía Nam sông Bến Hải trở vào đến sông Mỹ Chánh, năm 1954 có 8400 đảng viên ở lại sinh sống với gia đình. Sau hai năm, đến cuối 1956 còn lại 506 người, kể cả đồng bằng và vùng núi. 7900 đồng chí đã hy sinh hoặc bị bị bắt bớ, đày ải vào các nhà tù. Năm 1958, Lê Văn Hoan được điều về huyện Hải Lăng làm Phó Bí thư, thì cơ quan huyện ủy lúc này chỉ còn lại bí thư và mỗi một huyện ủy viên.
Cộng thêm bom đạn chiến tranh ở mặt đất và từ trên không, kể cả bom ném từ máy bay B52 của Mỹ. Tháng 8 năm 1965, tỉnh Quảng Trị họp đại hội tại Ba Lòng, chiến khu cũ thời chống Pháp. Ngày 13-8-1965, Mỹ cho máy bay B52 ném bom rải thảm. Bom rơi xuống sông, “cá chết trắng cả khúc sông, trôi theo dòng về xuôi” (tr. 190, Hồi ký Đất quê hương, Nxb Thuận Hóa 2009). Ông được bầu vào tỉnh ủy, trở về địa bàn của mình, làm Bí thư thị xã.
Lê Văn Hoan viết: “Sống và chết, chết và sống đã trở thành quen thuộc với chúng tôi. Chúng tôi xem thường cái chết và đã quên nó đi, bất cần nghĩ đến. Sống thì công tác, hoạt động, và chết cũng vậy thôi, đồng đội chết nhiều rồi, đồng chí đồng bào đã chết quá nhiều rồi. Bây giờ đến lượt anh, có sao đâu. Tất nhiên, mỗi lần có đồng đội hy sinh, cũng làm cho bản thân tôi chùng lại, nỗi buồn như đám mây đen qua bầu trời. Nhưng rồi công việc và cuộc sống lại cuốn hút đi…”.
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, may mắn sao ông vẫn lành lặn cho đến ngày hòa bình. Ông bảo tại số mình gặp may nhiều lần “trúng số độc đắc”, thoát chết gang tấc trong khi đồng đội hy sinh cùng lúc. Tuy nhiên, cái bí quyết giúp ông tồn tại là bám chắc vào dân. Ông khẳng định: Sống trong và hoạt động trong lòng địch, phải bám vào dân, càng ở sát nơi trọng yếu của địch, chúng càng ít ngờ, ta càng có nhiều cơ may không bị lộ, thoát chết để làm việc. Đó là bài học sống còn của Lê Văn Hoan.
Cuốn Hồi ký này không nhằm kể lể công lao, những đóng góp đương nhiên không đến nỗi quá nhỏ bé của một cán bộ suốt đời lăn lộn với phong trào. Nó chủ yếu tôn vinh và tạ ơn sâu của đồng bào, liệt sĩ ân nhân đã cưu mang đùm bọc cán bộ, “cảm ơn bạn hữu, đồng đội đã gánh chịu hy sinh mất mát cho tôi được sống đến ngày hôm nay” – ông viết từ những dòng đầu. Và quả là ông không hề quên một ai trong tổng số 69 gia đình cơ sở đã nuôi sống và tận tình giúp đỡ ông trong 30 năm. Họ mở rộng vòng tay cưu mang cán bộ trong khi cầm chắc rồi mình sẽ mang tai họa, gánh chịu tra tấn, tù đày, tan cửa nát nhà, thậm chí cái chết nếu chẳng may bị lộ.
Tác giả rành rọt kể nhiều kỷ niệm. Ông nhớ kỹ, bởi ông không quên ơn ai. Sau ngày thắng lợi, ông nhiều lần tìm về chốn cũ thăm người còn, thắp nén hương tưởng người quá cố. “Đó là gia đình bà Trần Thùy, gọi là Dật ở thôn Đại Nại, ngay từ năm 1954, hiệp định ký chưa ráo mực, kẻ thù đã trở mặt phá hoại. Tôi bị săn lùng. Gia đình bác Dật đã mở rộng tấm lòng đón tôi, dành cho tôi những gì quý báu nhất từ lậm (lẫm) lúa, cái sạp đựng đồ đạc… Bác đã phá cái lậm, làm thành hai ngăn, cho tôi có nơi ở an toàn. Đâu chỉ đơn thuần trốn tránh, mà đi về thất thường, cơm ăn nước uống và trăm sự phiền hà…” (tr. 139)...
 
 
 

Hợp tuyển thơ văn nặng tình đất nước, thắm lời non sông

16/01/2022 lúc 21:41






T





rong mối tương quan giữa cái chung và cái cá biệt, thơ văn của các thành viên Câu lạc bộ Đường 9 là yếu tố nghệ thuật chủ yếu làm nên sự thi vị của một tổ chức chính trị-xã hội tập hợp những cán bộ trung, cao cấp của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang khi đã nghỉ hưu. Gắn thơ văn với lương tri và những con người có mối quan hệ trực tiếp với sự phát triển của lịch sử, quê hương, đất nước, những trang viết của hợp tuyển “Đường 9 xanh” tập XI là một ấn phẩm kỷ niệm hai mươi năm lập lại tỉnh Quảng Trị đồng thời kỷ niệm hai mươi năm thành lập Câu lạc bộ Đường 9. Một lần nữa, sự ra đời của “Đường 9 xanh” làm ngạc nhiên người đọc bởi nhiệt hứng sáng tác của các bậc lão thành cách mạng, những anh hùng, cán bộ tiền khởi nghĩa tuổi cao chí khí càng cao với tâm hồn trong trắng đã ban lộc/ lòng dạ trung thành đất thưởng xuân/ tuổi thọ càng cao càng mến Đảng/ hồn thơ mãi thắm mãi yêu dân (Đỗ Đình Phong).
"Nghệ  thuật mang lại niềm vui lớn cho con người và nâng cao tâm hồn họ", những tứ thơ, ý văn trong “Đường 9 xanh” tập XI chứng minh điều đó. Bởi lẽ, xuất hiện với tư cách là chủ thể  sáng tạo, các tác giả của mỗi bài thơ, ghi chép, hồi ký... trong Đường 9 xanh tập XI là những con người từng dũng cảm chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc mà tính theo tháng, năm thì nay tuổi đã cao, sức đã già nên lao động nghệ thuật càng lắm công phu. Nhưng ý thức về cái đẹp của sự cống hiến, lý tưởng và ý nghĩa xã hội của thế hệ người cao tuổi sống vui, sống khỏe, sống có ích đã gây hứng khởi và tạo ra cảm xúc chủ quan của người làm thơ: Chín chục mùa xuân của tuổi đời/ sáu mươi tuổi Đảng trọn niềm vui/ tuổi đời tuổi Đảng cùng hòa nhịp/ vui sướng lòng già sống thảnh thơi (Phạm Thế Doãn).
Bao hàm các nội dung có tính nhân văn, được lý tưởng cách mạng soi sáng và mô tả hiện thực trong mối quan hệ với con người là đặc điểm chung của 116 bài thơ, bút ký, ghi chép, hồi ký, xướng họa trong “Đường 9 xanh” tập XI. Được sáng tác bởi những con người có niềm tin cao cả về đạo đức cách mạng, về xã hội và sẵn sàng đấu tranh vì cái đẹp, những tác phẩm này có nội dung nhân văn chủ nghĩa rõ ràng. Nội dung nhân văn ấy sáng tỏ trong hình ảnh những người lính từ tham gia kháng chiến trường kỳ đuổi thực dân Pháp, đánh đế quốc Mỹ vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hòa bình, thống nhất của đất nước đến chung sức lao động xây dựng và phát triển quê hương. Đó là những anh bộ đội cụ Hồ phối hợp chiến đấu đánh giặc Pháp ở thị xã Quảng Trị ra và chợ Cầu vào trong Trận đánh táo bạo của Phạm Thế Doãn, là chiến sĩ giải phóng quân nhạy cảm và tinh tế khi cảm nhận cái đẹp mơ màng trong tĩnh mạc của làng quê Cam Lộ trong bút ký Mảnh đất Cam Lộ và những trang viết của tôi của nhà văn Xuân Đức. Những người lính ấy đã góp phần làm nên cuộc sống bất diệt ở chiến khu Ba Lòng, làm nên chiến thắng Không đánh mà tan ở Hướng Lập và chiến công vẻ vang trên Thành cổ Quảng Trị anh hùng. Để rồi, khi đất nước thái bình, mảnh làng Cam Lộ mãi mãi lấp lánh trong tâm thức tôi như những mảnh trăng, cứ vằng vặc suốt cuộc đời và trong từng trang viết; chiến khu xưa trở thành nỗi nhớ không phai nhạt nắng mưa và chiều Thành cổ nén hương rưng rưng đỏ là cảm hứng sáng tác của những cựu chiến binh từng là đồng đội của lứa tuổi hai mươi bạn hóa thân/ cho đời đẹp mãi những mùa xuân. Một cách giản dị và tự hào, người lính và lý tưởng cách mạng là một chủ đề lớn của “Đường 9 xanh” tập XI. Cuộn vào chủ đề lý tưởng có những người lính đã ngả xuống trên tuyến đường xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước yên nghỉ đời đời ở nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, những người lính làm nên dòng sông hoa đỏ trong tám mươi mốt ngày đêm giữ vững Thành cổ Quảng Trị...
Gắn liền hình ảnh người lính trong kháng chiến trường kỳ  cũng như khi đã trở thành cựu chiến binh là ý thức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong hợp tuyển Đường 9 xanh tập XI, ý thức suốt đời làm theo lời Bác bao trùm lên mọi tác giả. Nếu tác giả Lê Văn Phú khắc ghi lời dạy của Bác về cội nguồn của dân tộc và bền chí học tập gương rèn luyện, tu dưỡng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì tác giả Trần Căn có niềm vui đặc biệt sâu sắc khi hiểu con đường Bác chọn là tự do, độc lập- rạng ngời soi. Bên cạnh tác giả Hoàng Phùng nghiền ngẫm từng lời Bác dạy sắt son/ việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm/ việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh là tác giả Nguyễn Đằng nhớ mãi lần gặp Bác và tác giả Phạm Công Bằng khắc sâu lòng biết ơn non nước ơn Người chữ quang vinh. Cùng tinh thần đó, tác giả Nguyễn Thanh học Bác vì dân, vì nước, đời Người trọn và đưa tay hái lá rau nhớ bữa cơm Bác Hồ đạm bạc/ bỏ chân vào dép sực nhớ Bác giản dị liêm chính kiệm cần/ nhớ gói cơm Người mang theo trên đường đi công tác học đức yêu nước thương dân...
 
 
 

Một số vấn đề bản quyền tác phẩm mỹ thuật

16/01/2022 lúc 21:41












 bài viết này chúng tôi không có tham vọng đề cập đến nhiều khía cạnh chuyên môn sâu mà chỉ đặt ra một số vấn đề cần lưu tâm. Đó là một số khái niệm ở lĩnh vực bản quyền tác giả mỹ thuật chưa chuẩn; tình trạng xâm hại là phổ biến nhưng chưa có giải pháp ngăn chặn hữu hiệu; tác phẩm mỹ thuật Việt Nam đã thích ứng với chơ chế thị trường chưa, có thì thích ứng ở mức độ nào; vấn đề quản lý tập thể bản quyền tác giả và cuối cùng là giải pháp cho những vấn đề chúng ta đang quan tâm.
Quy định pháp luật về quyền tác giả - một số khái niệm chưa chuẩn
Các quy định pháp luật về quyền tác giả đã đóng vai trò tích cực thúc đẩy các hoạt động sáng tạo nghệ thuật, khuyến khích, động viên ngành mỹ thuật nghiên cứu, sáng tạo ra các giá trị nghệ thuật đích thực. Nhiều cuộc triển lãm, các trại sáng tác mỹ thuật của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Trung ương, Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội văn nghệ địa phương đã được tổ chức, tạo điều kiện cho hoạ sĩ phát huy nặng lực sáng tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng, tính nhân bản, nhân văn sâu sắc. Các chính sách đầu tư chiều sâu cho hoạt động mỹ thuật, tài trợ, đặt hàng của nhà nước đã góp phần tạo ra cơ chế đồng bộ thúc đẩy hoạt động sáng tạo. Các giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước đã được trao tặng cho những cá nhân có nhiều sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật là sự tôn vinh của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy phong trào nghiên cứu, sáng tác, tạo ra các giá trị mới về nghệ thuật.
Các quy định pháp luật về quyền tác giả đã bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sáng tạo, nhà sử dụng, kinh doanh tác phẩm và công chúng hưởng thụ tác phẩm mỹ thuật. Nhìn chung, các quyền cơ bản của tác giả đã được tôn trọng, từ quyền đặt tên cho tác phẩm và đứng tên trên tác phẩm do mình sáng tạo, quyền công bố, phổ biến tác phẩm; cho hoặc không cho người khác sử dụng tác phẩm, bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm, đến quyền được hưởng nhuận bút, thù lao, và lợi ích vật chất khác do việc sử dụng tác phẩm mỹ thuật để xuất bản, trưng bày, triển lãm. Những tác giả, chủ sở hữu tác phẩm có nhu cầu đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền tác giả được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tạo điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện công việc bảo hộ quyền tác giả đã được định hình, nhưng chưa được hoàn thiện, cụ thể hoá phù hợp với lĩnh vực mỹ thuật. Một số khái niệm chưa chuẩn và không hợp lý, gây ái ngại cho các hoạ sĩ khi muốn đăng ký bản quyền tác giả, ví dụ:
Tại khoản 3, điều 3, công ước Berne quy định: “Tác phẩm đã công bố là những tác phẩm đã được phát hành với sự đồng ý của tác giả, không phân biệt phương pháp cấu tạo các bản sao, miễn là sự ra đời của các bản đó đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng, tuỳ theo bản chất của tác phẩm. Trình diễn một tác phẩm sân khấu, trình chiếu tác phẩm điện ảnh, đọc trước công chúng một tác phẩm văn học, phát thanh hay truyền hình một tác phẩm văn học nghệ thuật, triển lãm một tác phẩm nghệ thuật hay xây dựng một tác phẩm kiến trúc không được coi là công bố”.
Văn bản pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam cũng dựa trên cơ sở này. Vì vậy, trong tờ khai đăng ký quyền tác giả có mục tác phẩm công bố hoặc chưa công bố đối với tác phẩm mỹ thuật, không phải thông qua việc triển lãm, mà phải hiểu là tác phẩm mỹ thuật được chụp qua ảnh, in trên tạp chí, sách, báo, vựng tập… sự ra đời của các bản đó đáp ứng nhu cầu của công chúng, mới được gọi là tác phẩm mỹ thuật đã công bố.
Việc hệ thống văn bản pháp quy chưa đáp ứng được yêu cầu bảo hộ quyền tác giả không phải là vấn đề mới mẻ, và đã được không chỉ các chủ sở hữu mà cả các cơ quan quản lý cũng nêu ra nhiều lần. Sự thiếu rõ ràng về khái niệm (như tác phẩm; tác giả - chủ sở hữu; công bố, phổ biến…), về hệ thống quyền tinh thần và quyền tài sản (quyền cho phép hoặc không cho phép sử dụng tác phẩm, độc quyền sử dụng tác phẩm) là những yếu tố gây ảnh hưởng đến hiệu quả bảo hộ quyền tác giả.
Quyền tác giả mỹ thuật đang bị xâm hại...
 
 
 

Thơ Xuân Lợi - Tiếng quê vọng giữa thị thành

16/01/2022 lúc 21:41






N





gười ta bảo làng tôi, làng Hà Thượng có nước đất văn quả là không ngoa!
Tôi với Xuân Lợi là bạn đồng hương, thế nhưng chỉ biết Xuân  Lợi là con người của những con số. Anh hoạt động trong ngành kinh tế kỷ thuật sớm chiều lè kè chiếc máy tính trên tay với những bài trừ cộng nhân chia chứ có biết đâu anh còn là một người thơ. Gần đây thôi, tên anh xuất hiện khá nhiều trên các tạp chí không phải là tin tức bài viết mà lại là thơ ! Những bài thơ bóng mượt với  ngôn từ chân chất mang hồn vía của làng quê xóm mạc đã làm tôi hồ nghi.
            Trời ạ! Xuân Lợi lấy đâu ra thời gian và con chữ để chuốt trau đến độ long lanh như thế! Đó là dòng thơ hợp lưu trên nền thơ dân tộc được làm mới bằng chiều sâu nên hồn cốt của thơ rất quen mà rất lạ!
            Viết cho quê hưong, không dẫm lên lối mòn như một số cây bút khác anh khai thác hiện thực đọng lại bền lâu trong tâm cảm:
Hà thượng làng ơi con đã về đây
Tìm lại dấu xưa chuổi ngày thơ bé
            Hơi ấm nồng trong vòm tơi áo mẹ
            Sắn ủ rau tàu bay gối nhủn sờn vai ...
                                                                 (Tìm về)
Xuân Lợi đã len cảm xúc của mình vào ngõ ngách tâm hồn mới tìm ra hơi ấm tuổi thơ để nương bóng.
            Thiên nhiên trong thơ anh luôn hoà quyện với người nên cái tình và cảnh trong thơ khó nhận ra rạch ròi khiến câu thơ mang nhiều dư vọng:
Da em mùa lá thay màu cũ
 Ngậm ngùi anh lỡ chuyến đò xuôi
                                                    (Thu đổi biếc)
Viết cho quán Giang Châu, anh phác vẽ đôi nét như tranh thuỷ mặc vẫn đưa người đọc đến với không gian diệu ảo phảng phất mùi thiền cô tịch mà thơ mộng.
Ụ đá sần sùi róc rách chơi vơi
Con cá vàng nhởn nhơ bơi lượn
             Khung trời nhỏ sắc màu lấp loáng
Tụ về đây sông suối mây trời
                                                  (Quán Giang Châu )
            Anh đau đáu nỗi lòng khi tình cảm sắt se dành cho người mẹ tảo tần sương nắng
Trên đồng quê váng phèn màu cua gạch. Cái nghèo ám ảnh tuổi thơ để tình mẹ càng nồng sâu ray rứt lòng anh!
Mái lá tranh nghèo
Khói chiều váng vất...
Búng cơm mẹ mớm
 Ngọt ngào ca dao đằm thắm
Che chở hồn tôi gừng cay muối mặn
Cốc nước cầm hơi nhớ tổ chim về...
                                                  (Khúc hát đưa nôi)
Viết cho con trong khuya đêm vắng lặng, anh gởi vào đó ước mơ và niềm tin cho ngày mai tiếp bước anh đi . Câu thơ là tiếng lòng chan chứa tình thương vời vợi nhắn nhủ lời khuyên nhẹ nhàng mà sâu lắng :..
 
 
 

Từ Nguyên Tĩnh và tính vấn đề của truyền thuyết sông Thu Bồn

16/01/2022 lúc 21:41






Ô





ng nhà văn cựu chiến binh Từ Nguyên Tĩnh (tên thật là Lê Văn Tĩnh) thuộc thế hệ đàn anh, có đến mười năm tham gia chiến trận rồi mới trở về học ngành văn cùng một khóa với chúng tôi ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1978-1982). Đằng sau cái vẻ ồn ào, sôi nổi, thậm chí tếu táo chuyện trời chuyện biển là cả một sức sáng tạo mãnh liệt, không ngừng nghỉ. Từ ngày ra trường đến nay ông đã in tới hơn chục tập tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ đoản thiên, trường ca, và có đến vài ba giải thưởng của Hội Nhà văn, Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam nữa. Bây giờ thì ông đã nghỉ hưu rồi.
Còn nhớ, gặp lại sau khi ra trường mấy năm, có lần ông “khoe” với chúng tôi rằng mới tham dự trại sáng tác mãi trong Đà Nẵng (được gặp cả các nhà văn Nguyễn Trọng Oánh, Phan Tứ, Nguyên Ngọc….) và dự định sẽ viết một cuốn sách tâm huyết về tiểu đoàn đặc công Lam Sơn - Thanh Hóa trên địa bàn Quảng - Đà. Một phần tư thế kỷ qua đi, mãi gần đây tôi mới nhận được tiểu thuyết Truyền thuyết sông Thu Bồn, thành quả nghệ thuật từ lời hẹn năm nảo năm nào. Tiểu thuyết mà có cả lời trần tình Cùng bạn đọc ba trang, thanh minh thanh nga về quá trình sáng tác. Tôi đọc qua một lượt, thấy nhà văn xứ Thanh thực sự đã thấm được cái hồn cốt con người, cuộc sống, niềm vui nỗi buồn cả một thế hệ đã đi qua chiến tranh và một thời hậu chiến. Thiên tiểu thuyết giàu tính điện ảnh, phác vẽ một thời gian khổ, đầy biến động của đất nước và biết bao số phận con người. Hầu hết các nhân vật ở đây đều chứa chất những nghịch lý, những bi kịch lớn và nhỏ, những trận bão lòng của số phận cá nhân trong cơn lốc xoáy của vận mệnh lịch sử, dân tộc. Tôi muốn viết một bài đọc sách mà cứ khất lần tháng này qua tháng khác. Điều này có lý do bởi mới đọc qua, tôi không mấy hứng thú với những trang ghi chép của nhân vật Thậm về các trận đánh, nó khiến thiên tiểu thuyết lộ diện lối viết tư liệu, dễ sa đà vào định hướng mô tả sự kiện (mà rất có thể nhà văn đã đưa nguyên các bản tin chiến sự còn lưu trữ được). Thế là tôi đã nhắn một dòng tin ngắn gọn tới nhà văn: “Dường như có một khoảng cách giữa dự định và tính hình tượng của nhân vật trong tác phẩm. Có phần lộ đề không?). Thêm nữa, tôi thấy văn bản còn vương khá nhiều lỗi diễn đạt, cả ở phía người viết lẫn khâu biên tập, nhất là sự nhập nhòa ở những lời thoại và lời kể, tả. Rồi tôi nhận được ý kiến nhà văn: “Truyền thuyết sông Thu Bồn, mình tạo ra một số tầng. Cái phần ghi chép là cái cớ cho người ta kéo cái hiện thực đã lùi xa trong quá khứ. Cuộc chiến đấu là một bè để tải các số phận trong câu chuyện của người Quảng làm nên truyền thuyết. Vùng đất Quảng trung dũng thật nhiều điều đặc biệt, nếu khai thác truyền thuyết như nơi khác sẽ không được. Mỹ Sơn, Hội An cũng lướt qua như là sự hiển nhiên trong tiềm thức của các thế hệ người Quảng. Cái chính là họ làm nên truyền thuyết mới trong cuộc chiến tranh yêu nước này. Và họ chưa nguôi chuyện này lại gặp chuyên kia. Chưa xong Pháp lại đụng Mỹ, và dĩ nhiên gặp người Việt xa xứ và con em của kẻ thù. Cái truyền thuyết ấy là gì, trong quá trình nhận chân ra lịch sử? Nguyễn Hữu Sơn, mình viết tiếp cái phần từ tiểu thuyết Cõi người trước đây, nhưng lại mở ra cho số phận của người ngã xuống một dấu hỏi? Có làm tiểu thuyết tư liệu đâu Sơn - 23/5/09”…
Tôi đọc đi đọc lại Truyền thuyết sông Thu Bồn, vẫn gặp lại những ấn tượng ban đầu về khả năng nhà văn đã “tiểu thuyết hóa” được các sự kiện lịch sử, đặc biệt trên phương diện xây dựng nhân vật trong sự ba động của thời cuộc. Về kết cấu, Truyền thuyết sông Thu Bồn mở ra với sự kiện vợ chồng Thậm – Thư nhận được tin con gái Thư An du học bên Mỹ sẽ lấy chồng người Mỹ. Kết thúc thiên tiểu thuyết là việc chàng rể người Mỹ tìm lại xác cha mình trong cuộc chiến trước đây. Người cha đăng lính kia từng bắn trọng thương Thậm (ông thông gia hôm nay) và chính hắn đã bị một đồng đội của ông Thậm kịp thời tiêu diệt (bây giờ cũng có mặt trong ngày vui của đôi trẻ và cùng đi tìm xác người lính Mỹ năm xưa). Tấn bi kịch kết thúc có hậu, một kiểu “khép lại quá khứ” hay là “bước qua lời nguyền” ở tầm quốc gia, dân tộc.
Với 26 chương chính văn và một chương Vĩ thanh, đan xen giữa khung cảnh một thời bom đạn thực chất lại là tấn bi kịch gia đình nối dài tới ba bốn thế hệ, suốt hơn nửa thế kỷ, khởi đầu từ kết thúc chống Pháp (1954), trải qua cuộc trường kỳ chống Mỹ gian khổ đến 1975 và một thời hậu chiến kéo dài tới khoảng cuối thế kỷ XX. Ở đây có sự đối đầu quyết liệt giữa ta và địch, có sự phân hóa ngay trong đội ngũ những người cách mạng (trung kiên như ông Hoan, Tấn, Thậm, Thư và kẻ chiêu hồi như Kham, Nhiễu), có sự phân hóa ngay trong mỗi con người trước hoàn cảnh, tình thế và thời cuộc mỗi ngày mỗi khác (má Nhàn lấy ông Hoan sinh Thư cùng theo cách mạng nhưng sau lại lấy dượng Châu sinh Ly Ly ở phía bên kia; ông Kham là thủ trưởng cũ nhưng lại gặp Thậm khi phải ra trình diện, sau đợt cải tạo đã cùng vợ con đi Mỹ theo diện HO; cô Thư cách mạng nòi nhưng em gái cùng mẹ lại xuôi về lối sống Mỹ và người con gái duy nhất du học bên Mỹ cũng lấy chồng người Mỹ…). Bao nhiêu nhân vật là bấy nhiêu hoàn cảnh, số phận. Có thể nói chính việc xây dựng được hệ thống nhân vật phức tạp với đủ mọi tình huống đã giúp cho ấn tượng về những trang ghi chép tư liệu các trận đánh không quá nặng nề, đủ làm nền cho một thời trận mạc, đồng thời tô đậm thêm tâm thế hoài cảm, phán xét, chiêm nghiệm lại những tháng năm quá khứ.
Từ điểm nhìn của ngày hôm nay, vấn đề số phận cá nhân và cộng đồng đã thực sự trở thành một chủ điểm quan trọng, đạt tới “tính vấn đề” trong Truyền thuyết sông Thu Bồn. Bước sang thời hậu chiến, có khi chính sự đoàn tụ lại vô tình mở rộng, khơi sâu những vết thương lòng: “Ngày giải phóng, gia đình Thư là một bi kịch” (tr.60). Đó là những tấn bi kịch nhỏ trong ngày chiến thắng vĩ đại của cả một dân tộc, cảm thấu cái giá của sự hy sinh với bao lớp người. Bà ngoại Thư nói: “Nhưng mà cái nước mình nó khổ” (tr.21). Ông Hoan từ nơi tù ngục trở về nói với người vợ cũ: “Hoàn cảnh nước mình nó thế. Anh thật có lỗi không đón được mẹ con em, để em khổ mọi bề” (tr.74), rồi phân trần với người chồng sau của vợ: “Không!... Tôi chưa bao giờ phụ bạc với bà ấy cả… Tình cảnh của nước mình… Ông hiểu chớ?” (tr.279), và ông chiêm nghiệm: “Lúc chiến tranh thì mọi người cùng chung kiếp nạn. Bây giờ hòa bình rồi, bi kịch rơi vào từng người” (tr.286). Bản thân ông cũng thấy rõ sự lạc bước và những giới hạn của mình. Sau bao năm ở tù, tinh thần có thừa mà thiếu kiến thức, ý chí có thừa mà lúng túng như gà mắc tóc: “Nghĩ một lúc thấy điều này là phải, điều kia đuối lý. Nghĩ lại hầu như cái gì cũng là đúng… Góp ruộng, ai vào, ai không cho vào. Lấy lao động là chính, để cải tạo con người, thì con người nào không phải lao động” (tr.86), rồi khi khác trăn trở suy tư: “Có phải là vận mạng của dân tộc mà bất hạnh thì kéo theo bao người khác cùng khổ nhục và đắng cay không? Ba không được học nhiều, nhưng nghĩ thì đâu chỉ người học nhiều là có cái phước được nghĩ ngợi mà người ít học không được cái ân huệ ấy” (tr.291)....
 
 

 

Đọc thơ Bác vận dụng truyện Kiều

16/01/2022 lúc 21:41

 






C





hủ tịch Hồ Chí Minh, sinh vào năm Canh Dần (1890), trong một gia đình khoa bảng ven bờ sông Lam thơ mộng, vùng “địa linh nhân kiệt” ở làng Hoàng Trù, (Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Từ quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh, đi theo đường sông hoặc đường bộ đến quê hương đại thi hào Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều nổi tiếng ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh có quảng đường dài độ 27 km. Nơi miền quê xứ Nghệ có câu hát phường vải, phường nón, phường cấy, phường gặt, câu hò điệu ví đò đưa khoan nhặt cùng mái chèo rẽ nước ngược dòng Lam, hầu như người dân lao động ai cũng thuộc một vài câu Kiều của cụ Nguyễn Du để vận dụng trong sinh hoạt văn hóa, văn nghệ thường nhật. Trên mảnh đất xứ Nghệ, nhiều người thuộc lòng Truyện Kiều và sử dụng câu Kiều của Nguyễn Du “chế biến” lại thành thể loại văn học mới như lẩy Kiều, phỏng Kiều, tập Kiều, nhại Kiều, vịnh Kiều: “Bước xuống sông Lam bắt con cá lội/ Trèo lên Hồng Lĩnh hái một trái sim/ Có thương em, anh mới đến đây tìm/ Bây giờ giáp mặt như Kim gặp Kiều.”
Những sinh hoạt văn hóa, văn nghệ trên quê hương xứ Nghệ anh hùng, tạo ra sự yêu mến và thuộc lòng Truyện Kiều của người lao động. Thời bấy giờ, nhiều người dân không biết chữ, nhưng Truyện Kiều đọc thuộc lòng và vận dụng chuyển thể hình thức lẩy Kiều, nhại Kiều trong sinh hoạt ca hát phường nón, phường vải...Từ nhỏ, khi cùng gia đình vào Huế - nơi cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc làm quan - Bác Hồ kính yêu của chúng ta không những yêu mến Truyện Kiều  mà còn là bậc thầy vận dụng thơ Kiều trong giao tiếp hàng ngày. Bác là một trong những người có nhiều đóng góp, phát triển Truyện Kiều sang thể loại văn học vịnh Kiều, lẩy Kiều, nhại Kiều. Bằng hình thức trên, Bác đã tạo ra sự phong phú, sinh động và hấp dẫn, trong khi nói chuyện thời sự, chính trị khô khan người nghe không bị khô cứng.
Đứng trước cảnh nước mất, muôn dân nô lệ lầm than, nhiều phong trào Cần Vương, yêu nước của sĩ phu đứng lên đánh Pháp đều bị chúng dìm trong bể máu. Từ tình yêu Tổ quốc sâu nặng, Bác quyết ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân đánh đuổi quân xâm lược. Biết rằng ra đi là nhớ quê hương, Tổ quốc rất nhiều, nhưng Bác sớm xác định tư tưởng vẫn quyết ra đi. Năm xưa trên bến Nhà Rồng, chàng thanh niên Nguyễn Sinh Cung đã lẩy một câu Kiều tỏ rõ quyết tâm sắt đá:
“Quyết lòng dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi”
Bôn ba khắp năm châu bốn biển, suốt thời gian 30 năm đằng đẵng xa Tổ quốc, người thân trong gia đình để tìm đường cứu nước, cứu dân phá xiềng xích nô lệ, Người vẫn nhớ, thuộc và sử dụng vốn ca dao, tục ngữ dân gian, Truyện Kiều trong giao tiếp, sinh hoạt với mọi người. Trong cuốn sách: “Vừa đi đường vừa kể chuyện” của tác giả T. Lan kể rằng: “Khi đi công tác Bác đã đọc cho nghe và dạy cán bộ đi theo học từng đoạn và giải thích ý nghĩa từng câu, từng chữ trong Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm…”
Năm 1914, khi còn bôn ba ở nước ngoài, chưa hiểu biết nhiều về cách mạng, về Đảng và Quốc tế Cộng sản, với tâm hồn đầy nhiệt huyết yêu nước, trong một bức thư gửi tới nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành phỏng tác câu Kiều ca ngợi cụ Phan:
“Chọc trời, quấy nước tiếng đùng đùng
Phải có kiên cường mới gọi hùng”
Tuy câu thơ của Bác viết theo thể Đường luật, nhưng khi đọc lên mọi người đều nhận ra đó là câu Kiều, được vận dụng khéo léo, vẫn đủ ý nghĩa mà cụ Nguyễn Du dùng miêu tả khí tiết hiên ngang của Từ Hải đứng trước sự đè nén áp bức của triều đình mục nát: “Chọc trời quấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”.
Theo nhà sưu tầm, nghiên cứu Truyện Kiều Nguyễn Khắc Bảo, cuốn truyện kể về đồng chí Tổng bí thư Trần Phú, người huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh, là Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta. Nhà văn Sơn Tùng có viết một câu chuyện rất xúc động:  Năm 1930, khi đồng chí Trần Phú ở Liên-Xô về, gặp Bác tại lãnh thổ Trung Quốc. Một hôm vào ban đêm, Bác tỉnh giấc hỏi đồng chí Trần Phú:“…Đồng chí Lý (bí danh của Trần Phú) còn ngủ hay thức giấc rồi”. “Tôi vừa chợt dậy đồng chí ạ!”Trần Phú đáp lời Bác. Bằng một giọng bồi hồi, Bác kể với Trần Phú nghe giấc mộng về quê nhà, mà Người vừa mơ thấy…Bác ngồi yên lặng trên chiếc giường đơn, đôi mắt tinh anh nhìn vào màn đêm huyền bí, sâu thẳm. Ngồi một lúc khá lâu, Bác khe khẽ đọc mấy câu Kiều như để nhắc nhở bản thân:
“ Tình sâu mong trả nghĩa dày
Hoa kia đã chắp cánh này cho chưa
Mối tình đòi đoạn vò tơ
Giấc hương quan luống lần mơ cánh dài
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”
Ngâm mấy câu Kiều để diễn tả nỗi niềm nhớ thương Tổ quốc của những người cộng sản xa xứ. Bác vận dụng rất đúng chỗ, mượn nỗi niềm của nàng Kiều nhớ cố hương để nói lòng mình da diết thương nhớ đồng bào trong nước đang sống cảnh lầm than cực khổ.
Hàng ngày, khi nói chuyện và viết văn, Bác Hồ thường dùng thể loại văn phỏng Kiều, tập Kiều, lẩy Kiều với mục đích giảm sự khô cứng của vấn đề tuyên truyền, làm văn bản buổi nói chuyện thêm sinh động, thu hút người đọc, người nghe hứng thú theo dõi, dễ nắm bắt vấn đề được cử tọa chuyển tải. Năm 1942, Bác từ Trung Quốc về nước, ở tại hang Pắc-Pó chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam đã viết “Bài ca sợi chỉ”, dùng thủ pháp tập Kiều để khích lệ quần chúng đặt niềm tin vào sức mạnh chân chính: “Mạnh gì sợi chỉ cỏn con/ Khuôn thiêng biết có vuông tròn cho chăng”. Từ đó Người kêu gọi các tầng lớp tham gia vào công cuộc cứu nước:
“Yêu nhau xin nhớ lời nhau/ Việt minh hội ấy mau mau phải vào”..
 

Quê hương những cố đô

16/01/2022 lúc 21:41






M





ỗi xứ sở đều có một vẻ đẹp riêng. Mỗi quê hương đều có những nét văn hóa độc đáo mang bản sắc riêng để mỗi con người sinh ra và lớn lên ở đó tự hào và kiêu hãnh. Nhà báo Lý Hạo - Trưởng phòng đối ngoại  Hiệp hội báo chí toàn Trung Quốc, đã rất tự hào khi giới thiệu với chúng tôi về quê hương anh: "Hà Nam là quê hương của những cố đô". Chúng tôi đã đến Hà Nam để rồi mang theo về một nỗi nhớ, một ấn tượng không thể phai mờ về một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, nhiều danh lam thắng cảnh, một điểm đến rất hấp dẫn đối với khách du lịch.
         Tỉnh Hà Nam, Trung Quốc nằm trong khu vực Hoa Trung thuộc hạ lưu sông Hoàng Hà. Hà Nam là tỉnh đông dân nhất Trung Quốc: 97 triệu người, cũng là tỉnh có sản lượng lương thực đứng đầu Trung Quốc. Đặc biệt Hà Nam là một trong những cái nôi chính của nền văn minh Hoa Hạ, hình ảnh thu nhỏ của lịch sử văn hóa Trung Quốc. Cả Trung Quốc có bảy cố đô thì Hà Nam đã có đến năm cố đô. Các thành phố của Hà Nam như Trịnh Châu, Lạc Dương, Khai Phong, An Dương, Nam Dương, Thương Khâu và Huyện Tuấn đều là những thành phố lịch sử văn hóa nổi tiếng của Trung Quốc. Cảnh quan thiên nhiên thì có núi Thái Hàng, núi Phục Ngưu, núi Tùng và quần thể núi Đồng Bách và sông Hoàng Hà. Hà Nam đã hình thành hơn 10 tuyến du lịch: Du lịch thành đô, du lịch thắng cảnh sông Hoàng Hà, du lịch Công Phú Thiếu Lâm, du lịch cội nguồn, du lịch Tam Quốc... Điểm du lịch nào cũng rất hấp dẫn. Thành phố nào của Hà Nam đều có lịch sử văn hóa riêng biệt và độc đáo.
            Thành phố Lạc Dương nằm phía Tây tỉnh Hà Nam là một trong bảy cố đô lớn của Trung Quốc. Trong lịch sử đã có 13 triều đại xây dựng kinh đô tại đây với thời gian dài hơn 1.500 năm. Lạc Dương nằm ở khu vực trung lưu sông Hoàng Hà - là vùng đất phì nhiêu nhất của tỉnh Hà Nam, với gần 5000 năm lịch sử. Ở đây có các danh lam thắng cảnh như: Hang động đá Long Môn, núi Bạch Vân, động Kê Quán.
         Thành phố An Dương nằm ở phía Bắc tỉnh Hà Nam. Đây là thành phố lịch sử văn hóa nổi tiếng với hơn 3000 năm lịch sử và cũng là cái nôi của nền văn minh Hoa Hạ. An Dương là một trong bảy cố đô lớn của Trung Quốc được mệnh danh là "Trung Hoa đệ nhất cố đô". An Dương có các tuyến đường sắt nối liền với Bắc Kinh Quảng Châu, có tuyến đường cao tốc Bắc Kinh- Chu Hải, giao thông rất thuận lợi.
         Thành phố Khai Phong nằm bên bờ Nam sông Hoàng Hà phía đông tỉnh Hà Nam. Với 2000 năm lịch sử; Khai Phong là thành phố lịch sử văn hóa nổi tiếng với "Phủ Lệ giả thiên hạ, tự cổ đế Vương Đô".  Từ xưa đây là cố đô của những đế vương. Người Việt Nam và các nước trên thế giới đều đã biết đến Khai Phong qua phim ảnh Trung Quốc với một nhân vật đã trở thành truyền thuyết "Bao Thanh Thiên". Thành phố Khai Phong có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng có từ thời nhà Tống như Long Đình, Tháp Sắt, chùa Tướng Quốc, Phồn Tháp, Diên Khánh Quan, Sơn hiệp cam hội quán, Ngũ Vương đài và nhiều danh lam thắng cảnh khác.
         Thành phố Nam Dương nằm ở phía Tây nam tỉnh Hà Nam là một thành phố lịch sử văn hóa nổi tiếng của Trung Quốc. Nam Dương là một trong những cái nôi của nền văn hóa Trung Hoa. Thời Chiến Quốc, nơi đây từng là trung tâm huyện thép nổi tiếng. Thời Đông Hán, nơi này có tên là Nam Đô Đế Hương. Nam Dương có các thắng cảnh nổi tiếng như chùa Y Thánh, chùa Vũ Hầu, Hán Hoa Quản, di chỉ Vương Thành, chùa Huyền Diệu, Cửa Tri Phủ.v.v.
         Thành phố Tín Dương nằm ở phía Nam tỉnh Hà Nam với hơn 8000 năm lịch sử. Thời kỳ Hạ Thương, nơi đây đã thành lập các nước chư hầu và từng được mệnh danh là "Thiên Thừa Chi Quốc". Tín Dương sơn thủy hữu tình, phong cảnh rất đẹp. Khu thắng cảnh núi Kê Công là một trong bốn khu nghỉ mát lớn của Trung Quốc. Hồ Nam Loan là Viên ngọc của Hà Nam.
          Còn thành phố Thượng Khâu nằm ở phía Đông tỉnh Hà Nam được coi là cửa ngõ của tỉnh. Đây là cái nôi văn hóa của dân tộc Thượng. Thượng  Khâu có một nền văn hóa độc đáo và nhiều cảnh quan nhân tạo rất đẹp...
 
 
 

Trần Bình - Thao thiết một hồn quê

16/01/2022 lúc 21:41






H





ẳn nhiều người còn nhớ câu hát trong một ca khúc nổi tiếng thời chống Mỹ trên đất Quảng Trị “Tiếng trống trận từ Gio An vọng tới..” Gio An, một mảnh làng nhỏ âm thầm của miền tây Gio Linh-Quảng Trị, nơi có hệ thống giếng cổ là di tích văn hoá rất đặc sắc ghi dấu một thời phồn thịnh của người Chăm ở đất này. Trong lòng đồi đất đỏ ba-zan, những mạch nước ngầm trong ngần và trường cửu cứ lặng lẽ chảy ra, người dân địa phương gọi là nước mội. Nhiều thế kỷ trước, người Chăm đã biết xếp đá khoanh lại thành giếng quanh mội để lấy nước sinh hoạt và cấy lúa. Các nhà khảo cổ học gọi đó là những công trình thuỷ lợi “dẫn thuỷ nhập điền”. Ở những mội nước đó có một loại rau cũng rất đặc biệt, nó chỉ sống được với khe nước trong veo chảy ra, chỉ cần vẩy chút bùn lên là rau sẽ chết. Đúng là rau sạch tuyệt đối. Rau ấy có tên là rau Liệt, hay còn gọi là xà-lách-xông. Trần Bình, tác giả tập thơ nhỏ này sinh ra, lớn lên và hiện vẫn đang sống lặng lẽ trong lòng mảnh làng ấy.
Sở dĩ tôi nói lan man về giếng nước mội và giống cây rau Liệt trước khi bàn đến tập thơ bạn có trong tay, bởi nếu ai đó quen biết Trần Bình rồi. Đọc thơ anh hẳn sẽ có cùng nhận xét với tôi, anh là hiện thân của cọng rau thuần khiết đó, tâm hồn anh được nuôi dưỡng bằng chính dòng nước trong veo và cũng rất thuần khiết của đất Gio An. Con người sống trên đời và sống trong thơ, ai cũng có nỗi buồn, niềm vui, ai cũng không thể thoát ra khỏi vòng thế tục, cũng nhớ nhung, dằn vật, trở trăn, thậm chí cả giận hờn uất ức...Nhưng tất cả các cung bậc cảm xúc đó đối vơí Trần Bình đều rất tinh khiết và chân chất...
 
 
 

Nguồn gốc Tết Nguyên Đán và những phong tục cổ truyền trong ngày Tết của người Việt

16/01/2022 lúc 21:41












 Việt Nam, trong một năm có rất nhiều lễ Tết, ứng với tiết trời và mùa vụ khác nhau như Tết khai hạ (Mồng bảy tháng giêng), Tết rằm tháng giêng (Tết thượng nguyên), Tết hàn thực (Mồng ba tháng ba), Tết đoan ngọ (Mồng năm tháng năm)… trong đó, lớn nhất, trọng đại nhất vẫn là Tết Nguyên Đán. Các Tết trên có nơi tổ chức, có nơi không, với nhiều hình thức, nội dung khác nhau.Tết Nguyên Đán là ngày hội cổ truyền lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau, và là ngày lễ tưng bừng, nhộn nhịp của cả dân tộc, nó in đậm dấu ấn văn hóa dân tộc sâu sắc và độc đáo, phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người và thiên nhiên theo chu kỳ vận hành của vũ trụ. Trong An - Nam- Chí- Nguyên viết như sau về phong tục ngày Tết của cư dân Giao Chỉ cách đây cả ngàn năm: “Hàng năm ba ngày Nguyên Đán đều thịnh soạn cỗ bàn cúng tổ tiên. Trai gái, trai giới hoa hương lễ Phật. Chơi trò đánh vụ, đá cầu, hát múa, kéo co. Bên thắng uống rượu, bên thua uống nước lã… Năm hết Tết đến, ai có gì thì tiêu cho hết, cúng tổ tiên rất hậu, đốt pháo treo ống lệnh, ăn uống linh đình, chong đèn sáng đêm”. Những phong tục đẹp đẽ này vẫn còn lưu truyền đến ngày nay.
Tết Nguyên Đán hay còn gọi là Tết Cả. Chữ Nguyên có nghĩa là bắt đầu, chữ Đán có nghĩa là buổi sớm, buổi ban mai. Nguyên Đán là buổi sáng sớm khởi đầu của một năm mới. Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, Tết là do xuất xứ từ “tiết” (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông, điều đó, có ý nghĩa rất đặc biệt đối với một nước thuần nông như nước ta. Theo tín ngưỡng dân gian, bắt đầu từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì” người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ các vị thần linh có liên quan đến nông nghiệp như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước… Người nông dân cũng không quên ơn các loài vật đã cùng họ sớm hôm vất vả như trâu, bò, gia súc, gia cầm và các loại cây lương thực, thực phẩm đã nuôi sống họ.
Tết Nguyên Đán có nguồn gốc từ Trung Quốc, từ đời Ngũ Đế Tam Vương. Theo cuốn “Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam” thì: Ðời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng màu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng Dần. Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con trâu), tháng chạp làm tháng đầu năm. Qua nhà Chu (1050-256 trước công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng Mười một làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: Nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày Tết khác nhau. Ðến đời Ðông Chu, Khổng Phu tử ra đời, đổi ngày Tết vào một tháng nhất định: tháng Dần. Mãi đến đời Tần (thế kỷ III TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười. Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Ðế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng Giêng) như đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa. Ðến đời Ðông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Người và ngày thứ Tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được tính từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng Bảy.
Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản (các dân tộc ăn cơm bằng đũa) ăn Tết Nguyên Đán vào đúng ngày mồng Một tháng Giêng âm lịch. Hiện nay, người Việt chỉ được nghỉ ăn Tết trong 4 ngày, từ 30 tháng Chạp tới mùng 3 tháng Giêng (âm lịch), tức là tới hết ngày giống Lợn ra đời. Trên thực tế, không khí Tết sẽ dùng dằng ở lại cho đến hết tháng Giêng, thậm chí lâu hơn theo tinh thần câu ca dao mà người Việt ai cũng thuộc lòng: “Tháng Giêng là tháng ăn chơi/Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè”.
Đặc trưng văn hóa điển hình nhất của Tết Cả Việt Nam là “nếp sống cộng đồng”. Người Việt chuẩn bị đón Tết từ rất sớm. Ngay từ đầu tháng Chạp âm lịch đã nhộn nhịp đón Tết, chợ búa, hàng quán trở nên đông đúc hơn những ngày thường. Nhà nào cũng trang hoàng nhà cửa, may quần áo mới, lau chùi đánh bóng đồ thờ tự, thay cát mới cho bát nhang, bầy biện mâm ngũ quả, viết đối liễn… Ngoài sân, đầu xóm, đầu đường thì dựng cây nêu. Theo sách Gia Định Thành Thông Chícủa Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép rằng: "Bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là "lên nêu"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi". Với mỹ tục đậm đà bản sắc dân tộc, thế nhưng ngày nay tục trồng cây nêu lại không còn nữa. Họa chăng chỉ còn trong sách báo, trong thơ văn với câu đối Tết: "Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ. Cây nêu tràng pháo, bánh chưng xanh".
 Lễ cúng Táo Quân ngày 23 tháng Chạp được coi là mang tính giao thời, chuyển giao năm cũ, đón chào năm mới. Theo quan điểm của người Việt thì ông Táo là người ghi chép tất cả những gì con người làm trong năm và báo cáo với Ngọc Hoàng. Ngoài ra, ông Táo còn đại diện cho sự ấm no của một gia đình. Lễ cúng ngoài hương, nến, hoa quả, vàng mã còn có hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà và con cá Chép, cá Chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên đình gặp Ngọc Hoàng.
...
 
 
 

Đọc : Một thời Quảng Trị, nhớ về quê mẹ anh hùng

16/01/2022 lúc 21:41






N





ói đến mảnh đất Quảng Trị đau thương và anh hùng quê tôi, tôi không sao quên được câu nói của nhà văn Nguyễn Minh Châu như một ma lực từ ruột gan người lính: “Cái mảnh đất Quảng Trị gần như tôi bị si mê, hình như trong con người tôi và mảnh đất ấy có chung một sợi dây thần kinh mà hễ cứ chạm đến đấy thì cả con người tôi rung lên – tôi đã gắn bó với nó - cái vùng quê hương chiến tranh và khổ ải ấy hơn cả quê hương mình”. Đó cũng là nỗi lòng, lời tri ân của hàng nghìn hàng vạn chiến sĩ quân đội ta đối với Quảng Trị, mảnh đất nhọc nhằn, gan góc đã nuôi dưỡng, rèn luyện bao đồng đội của anh Châu thành dũng sĩ, trong đó có Thượng tướng, TS Nguyễn Huy Hiệu - một nhân chứng lịch sử của cuốn hồi ức: Một thời Quảng Trị. Đã có hàng mấy trăm, thậm chí hàng nghìn bài thơ, bản nhạc, thiểu thuyết, truyện ký, vỡ diễn, hồi ức viết về vùng đất đau thương và hào hùng này. Nguyễn Huy Hiệu đến sau, ông chọn thể loại ký ức - một thể loại gần với lịch sử - mà nhân vật trung tâm là tôi và chúng tôi (những đồng đội của ông). Lịch sử khách quan hơn văn học; văn học triết luận hơn lịch sử. Không nên nói cái nào hơn cái nào, bởi trong cái này có cái kia. Nhưng cái trước giúp người đọc hình dung được toàn cảnh cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước một cách chân thật tối đa: có thắng và có thua, có chiến công và sự hy sinh mất mát, trong cuộc tiến công Mậu Thân năm 1968 cho đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tác giả hồi ức không quên chọn lọc tư liệu, khái quát nhiều sự kiện ở các chiến dịch. Viết loại sách ký ức mà chỉ thuật lại câu chuyện từ đầu chí cuối, dù là kể hay, vẫn ít mang lại hiệu quả của sự đọc. Vì vậy, người viết những dòng này xin nêu mấy cảm thức khi đọc cuốn Một thời Quảng Trị, cuốn sách hội tụ nhiều chiến công lịch sử, giá trị văn hóa của một miền đất địa linh ở miền Trung.
I. Quảng Trị là vùng địa linh - một địa danh nổi tiếng về du lịch - đầu tư hấp dẫn.
Công bằng mà nói, “Địa linh nhân kiệt” thì không phải chỉ Quảng Trị mới xứng danh. Nhưng Quảng Trị có mấy đặc điểm độc đáo ít nơi nào có được. Hình như tiền nhân và con cháu thời đại Hồ Chí Minh sớm nhận ra rằng, nếu lịch sử chọn Quảng Trị làm điểm tựa, thì dân tộc ta biết giao phó sứ mệnh đó cho ai? Chỉ cần dẫn lại hai trong nhiều kỳ tích lịch sử đó. Một là, một mảnh đất nhỏ, hẹp diện tích trên dưới vài trăm cây số vùng mà đã ba lần là kinh đô lâm thời của cả nước. Nguyễn Hoàng cùng đoàn tùy tùng, nghĩa dũng từ Bắc vào Cửa Việt, ngược dòng sông Hiếu, qua Đông Hà rồi vào Ái Tử dựng dinh thự định đô trước khi vào cố đô Huế. Những năm 1883 - 1885 vùng Tân Sở (xứ Cùa) là căn cứ chống Pháp của vua Hàm Nghi. Sau khi kinh thành Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến lên miền Tây, ra Quảng Trị, thì miền đất linh ứng này thành kinh đô dã chiến, mở đầu phong trào Cần Vương, cứu nước. Còn vào những năm 70 (TK XX) Chỉnh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam chọn thị trấn Cam Lộ làm thủ phủ. Vì sao? Vì hình thế núi sông hiểm trở, có lợi cho việc phòng thủ, giao thông thuận lợi có ích cho thương doanh; con người giao hòa là cơ hội của việc bang giao, ứng xử. Hai là, trong lịch sử dân tộc ta, việc chia cắt đất nước đều trùng hợp với việc chia cắt Quảng Trị diễn ra không phải một lần. Và lần gần nhất (1954) không chỉ đất nước bị chia đôi, mà tỉnh bị chia cắt, huyện bị chia cắt (Vĩnh Linh), và xã cũng bị chia cắt (xã Vĩnh Sơn) và sau cùng là con sông Bến Hải cũng bị phân đôi. Bi kịch đó không chỉ riêng ai. Nỗi đau là sự thật đến vô lý. Mượn lời con sông bị chia cắt, Tế Hanh không nén nổi cảm xúc trào dâng khi viết về “thân thể” Quảng Trị những ngày rướm máu: Tôi chảy ngày đêm không nghỉ/ Đôi bời Nam - Bắc nhìn nhau/ Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị/ Tận chân trời mây núi có chia đâu? Dựng lại những sự kiện lịch sử hào hùng được nêu đậm - nhạt trong chương I với nhan đề: Quảng Trị và cuộc hội thảo: “Hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội”, tác giả cuốn ký ức đã nêu 10 di tích có giá trị đối với hoạt động du lịch, điểm đến của đầu tư và phát triển, mở ra thời kỳ mới: mở cửa và hội nhập, bằng chứng về chính sách hòa hiếu - truyền thống yêu nước của dân tộc, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước.
II. Tinh thần “thép” của Quân Đội vì dân…
 

Màu sắc phật giáo trong âm nhạc Trịnh Công Sơn

16/01/2022 lúc 21:41






T





rịnh Công Sơn đã mê hoặc hàng triệu con tim bằng sự ưu tư đầy Phật tính trong các ca khúc của mình. Thế nhưng lúc nào ông cũng bị ám ảnh bởi một cuộc chia tay lớn: “Đường nào dìu tôi đi đến cơn say/ Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời” (Bên ®ời hiu quạnh), hay: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/ Để một mai tôi về làm cát bụi” (Cát bụi), hoặc: “Ôi, tiếng buồn rơi đều/ Nhìn lại mình đời đã xanh rêu (Tình xa)… Và cuộc đời ông quả đã kết thúc sớm giữa một rừng hoa tang trắng vào ngày 1 tháng 4 năm 2001. Sự ra đi của ông như một dấu lặng vĩnh hằng chấm dứt chuỗi giai điệu 63 năm của một kiếp du ca. Dẫu con chim họa mi Trịnh Công Sơn đã bay về “cõi thiêng”, nhưng những giai điệu để lại vẫn không ngừng vang vọng như xoáy sâu vào tâm hồn người nghe những vấn nạn muôn thuở của kiếp người.
Ông sinh ra ở Daklak, nhưng lớn lên ở thành phố Huế trong không khí tĩnh lặng của ngôi chùa Hiếu Quang, nơi gia đình gửi ông vào vì đời sống quá khó khăn và dường như nhìn thấy nơi bản thể ông căn nghiệp tu hành. Những năm tháng sống ở chùa đã lưu dấu trong âm nhạc Trịnh Công Sơn một cái nhìn thăm thẳm và hư vô đối với đời sống. Sinh thời, Trịnh Công Sơn tâm sự: “Tôi là một Phật tử ở trong một gia đình có tôn giáo chính là Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã đọc kinh và thuộc kinh Phật. Thuở bé tôi hay đến chùa vì thích sự yên tĩnh. Có nhiều năm tháng nằm bệnh, đêm nào mẹ tôi cũng nhờ một thầy đến nhà tụng kinh cầu an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm đềm giữa những câu kinh đó. Có lẽ vì một tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những cổng nhà Phật nên trong vô thức bên cạnh những di sản văn hóa Đông-Tây góp nhặt được còn có lời kinh kệ nằm ở đấy”.
Với Trịnh Công Sơn, đạo Phật là hơi thở, là triết học làm cho con người yêu đời hơn chứ không thờ ơ hay lãng quên cuộc sống: “Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình, một thức triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc lời ru con của mẹ.  Tôi cố gắng làm thế nào để có thể trong bài hát của mình chuyên chở được một thông điệp của lòng nhân ái đến với mọi người”. Ông còn nói: “Không hiểu sao những năm gần đây tôi thường nghĩ về Phật giáo như một tôn giáo mang nhiều tính hiện sinh nhất. Bắt đầu bằng chữ “sát na”, một đơn vị thời gian siêu nhỏ. Phải biết sống hết mình trong mỗi sát na của thực tại. Từ mỗi cái ăn, cái uống, cái đi, đứng, nằm ngồi. Không làm công việc này mà nghĩ đến công việc khác. Với tôi, đó cũng là Thiền, là một cách sống đích thực. Tôi vẫn tiếp tục cách sống như thế hằng ngày. Tôi đang cố gắng quên Phật giáo như một tôn giáo. Tôi muốn đó là một thứ triết học siêu thoát mà ai ai cũng phải học, ngay cả những người thuộc tôn giáo khác. Mỗi người phải tự nỗ lực để xây dựng cho bằng được một ngôi chùa tĩnh lặng trong lòng mình và nuôi lớn Phật tính trong chính bản thân thành một tượng đài vững chắc. Nó sẽ giúp ta nhìn thế giới khác đi, nhìn cuộc đời khác đi”.
Tự dầm mình trong khí hậu của cô đơn, trong cái màu sắc Khổ đế của Phật giáo và dùng lăng kính ngày xưa để yêu và sống, chỉ có điều Trịnh Công Sơn nói bằng nhạc và thơ: “Nghe xót xa hằn lên tuổi trời/ Trẻ thơ ơi/ Trẻ thơ ơi/ Tin buồn từ ngày mẹ cho/ Mang nặng kiếp người” (Gọi tên bốn mùa). Do đó thế giới nhạc ngữ Trịnh Công Sơn rất lạ: Thực quyện Ảo, Không quyện Có, Khoảnh Khắc hòa lẫn với Thiên Thu… Nhưng ngày nào đời sống còn hiến tặng những “cây trái trần gian” thì ngày đó Trịnh Công Sơn còn tha thiết với đời. Dẫu đó chỉ là những sắc màu của kỷ niệm, của sự chia lìa, khổ đau, mất mát: “Dù đến rồi đi/ Tôi cũng xin tạ ơn người/ Tạ ơn đời/ Tạ ơn ai/ Đã cho tôi tình sáng ngời/ Như sao xuống từ trời” (Tạ ¬n). Cả cuộc đời ông là sự phấn đấu không ngừng nghỉ của một Phật tử. Trong Để gió cuốn ®i, ông đã hát: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng/ Để làm gì em biết không/ Để gió cuốn đi/ Để gió cuốn đi” và trong bài Ru em: “Yêu em yêu thêm tình phụ/ Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ”. Đây là thái độ “phá chấp” của một con người thấm nhuần tư tưởng Phật giáo. Bởi “tôi yêu cuộc đời và cuộc đời cũng đã yêu tôi. Đó là niềm an ủi lớn trong cuộc đời này. Vì thế trong lòng tôi không có một giây phút nào nuôi một lòng oán hận với đời. Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi với mình, và con người phụ rẫy mình, nhưng cuộc đời réng lớn quá và mỗi chúng ta chỉ là những hạt bụi nhỏ nhoi trong trần gian mà thôi. Giận hờn, trách móc mà làm gì, bởi vì cuộc đời sẽ xóa hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta, nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn”. -  ông đã từng nói như thế...
 

Nguyễn Phan Chánh thấm đẫm hồn quê

16/01/2022 lúc 21:41






C





ác họa sĩ bậc thầy Việt Nam luôn để lại những dấu ấn cá nhân về mặt bút pháp. Nếu như Tô Ngọc Vân tài hoa, mẫu mực; Nguyễn Sáng chính xác, ngang tàng; Nguyễn Tư Nghiêm thâm trầm, khúc triết; Dương Bích Liên chắt lọc, tinh tế; Bùi Xuân Phái nặng tình, run rẩy… thì nghệ thuật Nguyễn Phan Chánh thấm đẫm hồn quê, chân phương, bình dị.
Xuất thân từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương do người Pháp đào tạo, nhưng Nguyễn Phan Chánh lại thành công và thành danh ở lĩnh vực tranh lụa - một loại hình nghệ thuật mang đậm chất Á Đông từ chất liệu cho đến cách tạo hình. Ông chỉ tiếp nhận các kỹ thuật hội họa phương Tây - hình họa, đường nét, màu sắc, bố cục, cách xử lý ánh sáng, luật xa gần… 
 

Tìm hiểu sự suy tư về chiến trang và con người trong chiến tranh ở trường ca

16/01/2022 lúc 21:41




 








C





hiến tranh, trong mối tương quan nơi nhận thức của nhân loại - không ở thời kỳ cổ xưa, luôn xác định một ranh giới rõ ràng về một sự phân cực: chiến tranh vệ quốc,chiến tranh xâm lược- chiến tranh vệ quốc, có tính chất là cuộc chiến tranh chính nghĩa; chiến tranh xâm lược có ý nghĩa là cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Trong lịch sử Việt Nam đã từng diễn ra cuộc chiến tranh vệ quốc, chống thực dân  Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Cuộc chiến tranh của đông đảo nhân dân Việt Nam chống quân xâm lược đến từ châu Âu, châu Mỹ như thế trở thành niềm tự hào dân tộc. Cuộc chiến tranh ấy là một đề tài lớn của văn học Việt Nam, cho đến tận bây giờ.
Nhà thơ Hoài Quang Phương trong sự thể hiện nghệ thuật của mình đã lấy chiến tranh làm đối tượng để xây dựng ra trường ca Vầng trăng biển. Chiến tranh trong trường ca Vầng trăng biển cũng hiện diện hai thái cực đối lập, chiến tranh vệ quốc, chính nghĩa giữ quê của người dân Vĩnh Linh nói riêng và của toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung chống lại cuộc xâm lược phi nghĩa của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng.
Viết Vầng trăng biển với các nhân vật như: Hùng, Kiều Linh, Lena… nhà thơ đã để cho những nhân vật của mình sống và chiến đấu trong một hoàn cảnh đặc biệt. Ở Làng Hầm, hoặc di chuyển khắp nơi trong lòng cuộc chiến, Hùng, Lena…là những nhân vật may mắn đã đi qua cuộc chiến tranh, bước vào ở cuộc sống mới thời bình. Thế nhưng: Lịch sử thời gian là tâm hồn con người thì giữ được, cũng như con sông Hiền Lương không còn chia cắt, vết thương ly biệt đã lành, cũng có những vết thương không bao giờ lành được. Trong lòng nhân dân vẫn mãi tồn tại cuồn cuộn một dòng sông kỷ niệm, ký ức. Dòng sông này càng chảy mạnh hơn khi nhân vật về lại chính nơi ngày xưa họ đã sống và chiến đấu giữ làng, giữ quê. Trong những thời điểm như vậy, những suy tưởng của nhân vật về cuộc chiến tranh và về những con người trong chiến tranh lại có dịp bùng nổ dữ dội. Sự suy tưởng và những day dứt trong khi suy tưởng càng tăng khi nhân vật đứng trước một thực tế.
Con đường cát ngày xưa in những dấu chân các thế hệ.
Gió  vô tâm xóa, đường không còn giữ được 
dấu chân nào.
rất dễ lãng quên
Nhất là khi họ đã thức nhận một cách rõ ràng chân lý hiển nhiên của thực tại khác quan về “Đường đi” trong cuộc hành trình về nguồn:
Mấy chục năm, mỗi lần về thăm
Anh đã đi đường bộ, đường sắt, cả đường hành không
Cách gì cũng qua cầu Hiền Lương và Đường Gió Cát.
Và một triết lý khác của hiện thực tâm tưởng “Nhưng lịch sử thời gian và tâm hồn con người thì giữ được”, xác tín bằng những suy tư.
Ta nặng nợ một đời không trả được
Đi qua chiến tranh ta mắc nợ con người
Đi qua thời bình ta mắc nợ niềm vui
Đi qua hồn mình ta mắc nợ tình yêu và cuộc sống
Triết lý về thực tại hiện tồn và hiện thực tâm tưởng đã được Đại tá Hùng đưa ra do chính sự trải nghiệm của mình trong cuộc sống xã hội, qua sự thử thách của thời gian và chiến tranh. Triết lý về hai kiểu hiện thực như thế có lúc được nhân vật tách biệt rạch ròi, có lúc lại ở thế đan xen. Điều này làm tăng cho sức nặng những suy tư trăn trở....
 

Chế Lan Viên - Người nặng ơn vị muối của đời

16/01/2022 lúc 21:41

Chế Lan Viên  là một nhà thơ lớn, nhà nghiên cứu lý luận, nhà phê bình văn học nghệ thuật hiện đại thế kỷ XX. Ông tên thật là Phan Ngọc Hoan (ghi trong gia phả là Phan Ngọc Hoan Châu), sinh năm 1920, quê làng An Xuân, xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị (ngày xưa làng An Xuân thuộc tổng An Lạc, Huyện Võ xương, Phủ Triệu Phong). Theo gia phả thì ngài thế tổ của ông (đời thứ 3 tại Quảng Trị) có công lập nên làng An Xuân, ngôi làng nhỏ nép mình bên con đường Xuyên Á từ ngã tư Sòng chạy về cảng Cửa Việt.

Làm gì để người nông dân Quảng Trị

16/01/2022 lúc 21:41






N





ăm 2009, Bộ Chính trị đã có thông báo Kết luận số 264 về tổ chức Cuộc vận động (CVĐ) "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Mục đích của CVĐ nhằm phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, tự tôn dân tộc, xây dựng văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam và sản xuất ra nhiều hàng hóa Việt Nam có chất lượng, có sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Theo đó, Tỉnh ủy Quảng Trị đã có Quyết định số 789/2010 về việc thành lập Ban chỉ đạo CVĐ "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam". Ban chỉ đạo đã tổ chức hội nghị triển khai và phân công nhiệm vụ cụ thể  cho các thành viên để thực hiện có hiệu quả cuộc vận động quan trọng này.
Đặc thù của tỉnh Quảng Trị có dân số ở nông thôn chiếm đến 75,5%, sống trên một địa bàn khá rộng lớn bao gồm cả miền núi, vùng gò đồi, vùng đồng bằng, vùng đồng bằng ven biển, dân cư phân bố không đồng đều...Do đó, có thể xác định, nông thôn là khu vực cần quan tâm trong quá trình triển khai CVĐ "Người Việt Nam ưu  tiên dùng hàng Việt Nam" ở Quảng Trị.
...............
 

Sắc thái địa phương trên Tạp chí Cửa Việt

16/01/2022 lúc 21:41






B





ạn đọc quan tâm đến Tạp Chí Cửa Việt có lẽ vì Quảng Trị là vùng đất dày chứng tích, vùng đất hiến dâng chia cắt và khát vọng. Một vùng đất luôn mang khát vọng hoá thân thành những giá trị văn hoá cho con người. Những ai đọc Tạp chí Cửa Việt đều cảm nhận được dòng chảy cuộc sống ở mảnh đất này với một mạch thời gian không ngừng nghĩ từ quá khứ đến hiện tại. Tạp chí Cửa Việt đã  làm tròn chức năng nhiệm vụ của mình là tái hiện chân thành hiện thực hào hùng cũng như  huyền thoại không kém phần bi thương nhân bản của mảnh đất truyền  đầu ác liệt này. Với tiêu chí đó, Cửa Việt đã chiếm được vị trí và  tồn tại lâu bền được trong lòng bạn đọc. Nâng cao chất lượng tờ tạp chí vừa hay vừa đúng định hướng đồng thời vẫn có màu sắc, tính chất riêng biệt so với các  tờ  báo bạn, đó là câu hỏi luôn được đặt ra đối với những người làm báo Cửa Việt. Trong bài viết này tôi mạo muội  có mấy ý kiến ngắn  về vấn đề sắc thái địa phương và  tăng cường sắc thái địa phương trên Tạp chí Cửa Việt.
 Tạp chí văn nghệ trước hết là diễn đàn của đội ngũ sáng tạo VHNT tỉnh nhà, là nơi công bố những sáng tác phẩm văn nghệ phản ánh cuộc sống sôi động từng ngày đang diễn ra trên mảnh đất này.  Văn học nghệ thuật là một bộ phận tinh tuý và nhạy cảm nhất của Văn hoá. Sáng tạo ra các tác phẩm VHNT chính là góp một phần sáng tạo nên những giá trị Văn hoá phục vụ cho sự phát triển xã hội. Nghị quyêt TW 5 ( Khoá 8) của Đảng đã xác định rõ nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Hiểu một cách đầy đủ thì xây dựng một nền văn hoá Việt Nam phải được bắt đầu từ những bản sắc độc đáo của từng vùng miền, từng địa phương, tổng hoà lại thành một bản sắc chung Việt Nam. Từ đó Văn học Việt Nam mới có đầy đủ hành trang, sức vóc để bước ra cùng nhân loại. Không thể có khái niệm văn hoá nhân loại nói chung nếu không được bắt nguồn từ bản sắc của từng dân tộc. Cũng như vậy, không thể có cái gọi là bẳn sắc Việt Nam nếu không khắc hoạ rõ nét bản sắc 54 dân tộc cùng nhưng vùng miền phong phú trên cả đất nước. Như vậy rõ ràng, khi chúng ta xác định trách nhiệm xây dựng nền  văn hoá- văn học nghệ thuật Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chính là chúng ta đã khẳng định nhiệm vụ của mình là phải khắc hoạ một cách sâu sắc và độc đáo sắc thái quê hương trong mỗi diễn đàn văn nghệ của mỗi địa phương.
Cũng có người lo ngại rằng, quá chú trọng đến bản sắc địa phương sẽ làm giảm giá trị phổ quát cũng như hạ thấp tầm của một tờ báo văn nghệ địa phương so với báo chí Trung ương. Hoàn toàn không phải như vậy. Bởi thực chất thì bất kì một tạp chí văn nghệ Trung ương nào cũng là nơi tập hợp những sáng tác tiêu biểu của các vùng miền, địa phương trong cả nước. Những  tác phẩm ấy có khi là của các văn nghệ sĩ các địa phương viết về quê hương mình, có khi là của những nhà văn ở cơ quan trung ương nhưng đã đi sâu về từng vùng đất trên đất nước để sáng tác.
Gần đây, trên các diễn đàn phê bình, lí luận văn học cả nước xuất hiện nhiều đòi hỏi về vấn đề nhân loại trong sáng tác văn học. Nhân vật nhân loại, vấn đề nhân loại, tư tưởng nhân loại v..v..Đó là những bức xúc và đòi hỏi rất chính đáng và cần kíp để đưa được nền văn học chúng ta tiếp cận với nhân loại toàn cầu. Tuy nhiên, chúng tôi xin được khẳng định lại nhận thức của chúng tôi là, mọi vấn đề nhân loại đều có trong mỗi con người chúng ta, là nỗi bức xúc của từng quốc gia, từng mảnh đất trên toàn cầu. Vậy, nếu mỗi chúng ta trên từng mảnh đất ấy tiếp cận được những vấn đề nhân loại thì chúng ta vẫn đạt được tầm vóc tư tưởng toàn cầu.
 Vậy sắc thái địa phương trong tạp chí văn nghệ được xác định ở những yếu tố nào. Theo tôi, trước hết nó được xác định ở 3 yếu tố :
1- Trước hêt là nội dung cuộc sống được phản ánh trong các tác phẩm trên tạp chí phải tập trung và rõ nét cuộc sống đang diễn ra trên địa phương mình....
 

« 4748495051 »

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

21/04

25° - 27°

Mưa

22/04

24° - 26°

Mưa

23/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground