28/01/2025 lúc 23:15
19/08/2023 lúc 16:57
M
ột thực trạng chung trong nhiều năm qua kéo dài cho đến hôm nay, đối với người Quảng Trị, đó là lỗi viết sai chính tả tiếng Việt. Không phải tất cả, nhưng đa số người Quảng Trị đều mắc lỗi này, đến nỗi có người nói vui hễ cứ đọc bài nào sai chính tả nhiều thì đó là của người Quảng Trị. Bài viết này không phải là chuyện “vạch áo cho người xem lưng” mà chỉ là góp ý kiến nhỏ cùng quý thầy cô đang làm công tác giảng dạy ở tỉnh nhà, âu cũng là một việc làm cần thiết nhằm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt hiểu theo nghĩa rộng.
1. Do đâu mà viết sai
Gần đây tôi có vào đọc bài của một số người Quảng Trị trong các forum (diễn đàn) và blog (nhật ký cá nhân), đây là hai dạng thức của thế giới mạng tin học (internet). Vào những trang đó, thấy bà con chúng ta viết sai lỗi chính tả quá nhiều. Đôi khi tôi ngồi tủm tỉm cười một mình, nhưng rồi lại thấy buồn.
Thời đi học ở trường làng, trường huyện, tôi và bạn bè thường viết sai chính tả, lúc đó cứ nghĩ sai là do mình mới học ít chưa biết. Nhưng đến mãi khi vào đại học thì cái sai này vẫn còn, nhiều người ra trường đi làm việc vẫn chưa khắc phục được. Lỗi viết sai chính tả cứ bám dùng dằng dai dẳng như con đỉa, mà đối với người Quảng Trị đi làm ruộng thì đỉa không phải là điều đáng sợ (!). Một nét tính cách thuần hậu đáng quý của người Quảng Trị đó là chịu đựng và chấp nhận. Nhưng cũng chính cái sự dễ dàng chấp nhận này mà lỗi chính tả, thành ra cũng “ừ thì kệ nó” luôn.
Lỗi sai chính tả dễ thấy nhất đó là viết nhầm giữa dấu hỏi với dấu ngã (dấu thanh). Cái sai này là sai chung của người Việt mình, nhưng Quảng Trị vẫn nặng hơn cả. Có người viết tên tỉnh Quảng Trị thành ra Quãng Trị, viết tên sông Thạch Hãn thành Thạch Hản, viết tên di tích lịch sử Nghĩa Trang Trường Sơn thành Nghỉa Trang Trường Sơn... Cái sai này đã chạm vào những tên riêng thiêng liêng của quê hương. Thiết nghĩ, viết như thế là đáng trách.
Bây giờ ra đường, nhìn các biển hiệu ở quán xá dịch vụ, ta dễ dàng bắt gặp rất nhiều lỗi chính tả. Đấy là những cái sai ngờ nghệch, ngớ ngẩn, buồn cười, thậm chí thô thiển. Chẳng hạn có nhiều quán sửa chữa xe máy đề biển “sữa Honda”. Giả sử có một người khách nước ngoài tra từ điển, chắc sẽ thốt lên là ở nước Việt có một loại sữa uống mang hiệu Honda. Hoặc nhiều quán đề biển “sữa chửa”, thì nó có nghĩa là sữa của bà mẹ đang mang thai.
Có lần tôi đọc được câu văn thế này trên trang blog của một người Quảng Trị: “Tôi rất quý mến nhà văn Hoàng Phũ Ngọc Tường”. Quý mến nhau mà thế à? Quý mến nhau mà đến cái tên người ta có mỗi một dấu chữ cỏn con cũng để sai. Ai cũng biết chữ “Phủ” (dấu hỏi) có một nghĩa rất đẹp mà có lần Nguyễn Trọng Tạo thắc thỏm thì Hoàng Phủ trả lời rằng chữ “Phủ” đó đại khái là một cái nhà chứa sách hay tiền bạc gì đó. Còn khi viết chữ “Phũ” (dấu ngã) thì thành ra một nghĩa chẳng có gì hay ho, thậm chí là xấu. Cái sai này tuy không thiêng liêng như sai tên địa danh quê hương, nhưng lại chạm đến vấn đề tình cảm mà đôi khi rất dễ làm mếch lòng nhau. Trong các blog đều có phần viết góp ý và khổ chủ trả lời góp ý đó. Một hôm nhà thơ Hữu Kim vào trang blog của một người Quảng Trị mình, ông nhà thơ viết tên rõ ràng là Hữu Kim. Thế mà ngay kế đó khổ chủ trả lời lại viết “anh Hửu Kim thân mến!”. Thân mến mà thế à? Thân mến mà đổi luôn cái tên có vẻ sang trọng quý phái của người ta thành ta một chữ hình như chẳng có nghĩa gì cả....
19/08/2023 lúc 16:57
H
è 1968
Nhà mình ở Bố Trạch, Quảng Bình. Chiến tranh phá hoại do không quân Mỹ thực hiện ra miền Bắc ngày càng khốc liệt, sự sống được tính bằng ngày. Mạ và năm chị em sống trong một căn hầm chữ A làm bằng gỗ, tre tháo từ căn nhà lợp rạ cạnh căn hầm của Hội nhà báo tỉnh Quảng Bình. Mỗi lần bọn “Thần sấm”, “Con ma“ Mỹ nhào lộn ném bom xuống cầu sắt và cầu đường bộ bắc qua sông Dinh nối hai bờ Nam Trạch và Đại Trạch thì mạ và chị dồn các em vào một góc hầm rồi choàng tay ôm như muốn che chắn. Em chuồi ra khỏi vòng tay mạ lao tới cửa phụ của căn hầm trồi người lên và đếm: hai quả, bốn quả!. Những quả bom đen trũi lao vun vút rồi một loạt tiếng nổ trầm đục cùng những đụn khói đen cuộn lên. Mạ nhào tới kéo chân em: “xuống đi, xuống đi con, mạ xin!” Chú Phan Văn Khuyến - nhà báo, qua hầm nhà mình nói: “Chị cho mấy đứa qua bớt hầm tụi em, như thế thì tốt hơn.” Lần nào mạ cũng phân trần: “không được mô chú, ông nhà tui bộ đội ở xa, hai đứa lớn thì đang học trường học sinh miền Nam ngoài Bắc. Năm đứa ni ở với tui, mạ con phải ở chung một hầm. Nếu có phúc thì cùng sống, lỡ có xui thì cùng chết chứ chia ra không may mạ chết con ở với ai, còn nếu không may nữa con chết, mạ sống làm chi, ngày ông nhà tui về, tui ăn nói làm răng?
Có lẽ ba rất hiểu mạ, nên từ Nam Đàn, Nghệ An nơi Bộ tư lệnh Quân khu Bốn đóng quân, ba nhờ các chú bộ đội có dịp ghé thăm và bàn với mạ bố trí cho chị và em ra Nghệ An với ba. Lúc này người dân Quảng Bình, Vĩnh Linh cũng đang lũ lượt sơ tán khỏi vùng đất "tọa độ chết" ra Tân Kỳ (Nghệ An), Thọ Xuân (Thanh Hóa)... Mạ đồng ý, vậy là em - lúc đó 12 tuổi và chị 18 tuổi đã có một chuyến đi bộ ra Hà Tĩnh, để từ Hà Tĩnh đi tiếp ra Nghệ An. Chuyến đi dưới bom đạn của tàu bay và pháo hạm Mỹ đầy nước mắt và khổ cực. Em còn nhớ cái buổi chiều chị em mình đi qua đèo Ngang, trời mưa lất phất, nhìn xuống bên tay phải, vực sâu hun hút nhìn lên bên trái vách núi dựng đứng. Một cây ổi mọc ngay lề đường với vài ba trái xanh, nhỉnh hơn ngón chân cái, em dừng lại hái, chị chạy lui kéo tay em “đi thôi em, đứng lại là chết, pháo Mỹ ngoài biển sắp bắn vô rồi” “em đói lắm chân em chảy máu không đi được nữa mô“, “vậy để chị cõng”, “nhưng chân chị cũng chảy máu tề, thôi để em đi”…
Sau gần một tuần hai chị em cũng đã đến được Thạch Hà (Hà Tĩnh) và tạm trú ở đó chờ tin Ba. Những ngày thiếu thốn và đói khát "cơm vừng một bát" bắt đầu…
Xuân 1975
Ba đang là Đoàn trưởng Đoàn 200 – Quân khu Bốn, Mạ và ba em sau mấy năm ở Thanh Chương đã chuyển về Quỳnh Lưu - Nghệ An. Chị đã tốt nghiệp Đại học sư phạm Hà Nội và đang làm giáo viên ở Trường cấp 3 Thuận Thành, Hà Bắc. Cuộc chiến tranh chống Mỹ đang ở giai đoạn quyết liệt, ngày toàn thắng đang đến gần. Cả miền Bắc dồn hết sức người, sức của cho trận chiến đấu cuối cùng giải phóng miền Nam. Em đang là sinh viên của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội viết đơn xin nhập ngũ với một tâm niệm cháy bỏng được tham gia giải phóng quê mình. Chị hay tin, tìm đến khu ký túc xá của trường Tổng hợp ở Thanh Xuân thăm em trước ngày em lên đường, đặt vào tay em một ít tiền và tờ giấy trắng có bốn câu thơ của chị:...
19/08/2023 lúc 16:57
C
ánh đồng Già – Voòng của xã miền núi Vĩnh Trường, huyện Gio Linh trông giống như chiếc quạt xòe ra hai bên đại lộ Hồ Chí Minh chạy từ thị trấn Bến Quan huyện Vĩnh Linh vượt sông Bến Hải rồi vươn xa vào phía Nam. Ít ai đồ rằng trên những lối mòn lịch sử xuyên dưới những cánh rừng đại ngàn còn in dấu chân của các nghĩa sĩ Cần Vương hơn 100 năm trước, hay vết xích xe tăng của những binh đoàn chủ lực tiến vào giải phóng miền Nam nay đã trở thành một đại lộ thanh thang mang tầm cỡ thời đại. Những ngọn đồi bát úp với những tên gọi nghe huyền bí như tên gọi của một thời tiền sử như Xà Luộc, Leng Keng, Vơng Vơng… nay đã thức dậy với màu xanh bạt ngàn của cao su, hồ tiêu, cây ăn quả, rừng nguyên liệu… Thấp thoáng trong sương sớm là nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn - tượng đài bất tử của khát vọng thống nhất non sông của dân tộc Việt Nam với hơn một vạn cán bộ chiến sĩ của khắp mọi miền đất nước về yên nghỉ giữa đất rừng của Vĩnh Trường. Xa hơn chút nữa là những thôn bản bình yên của đồng bào dân tộc Vân Kiều với những ngôi nhà ngói, nhà xây và những ngôi nhà sàn cất theo lối kiến trúc truyền thống của người xứ núi. Buổi sáng, tiếng chim quyên quy giục giã cỏ non nhú lá, mấy chú dê non tung tăng dưới ánh mắt trời. Trên khắp các ngã đường của thôn bản tấp nập các em học sinh người Vân Kiều cổ quàng khăn đỏ tung tăng cắp sách đến trường như vẽ vào bức tranh buổi sớm của xã miền núi Vĩnh Trường một gam màu mới…
Cô giáo Hường – quê vùng sông nước Gio Việt, đến năm học 2010 – 2011 đã có năm năm thâm niên cắm bản. Năm 2006, tốt nghiệp Trường cao đẳng mẫu giáo mầm non Đà Nẵng, trở về Gio Linh cô tình nguyện lên nuôi dạy các cháu con em đồng bào dân tộc Vân Kiều xã Vĩnh Trường. Đến nay cô giáo Hường được xem là con em của dân bản, với thói quen chạy xe máy vượt đèo Kù Rang để vận động bà con dân bản cho con em đến trường, hoặc thăm nom các cháu bị ốm phải nghỉ học. Và hôm nay cũng như mọi ngày, cô giáo Hường lại chuẩn bị một ngày đến lớp trên chiếc xe máy đã tróc hết màu sơn. Trước cô giáo Hường đã có nhiều thế hệ giáo viên miền xuôi lên dạy cái chữ Cụ Hồ cho đồng bào dân tộc Vân Kiều của hai xã miền núi của huyện Gio Linh, trong đó có xã Vĩnh Trường. Nhiều người trong số họ đã mãi mãi nằm lại với đất rừng vì sốt rét ác tính, vì bom đạn còn sót lại của chiến tranh. Dân bản thường bảo:
- Người Vân Kiều học được cái chữ của Cụ Hồ như con chim bay giữa trời.
Quả đúng như vậy thật!
Nhờ học được cái chữ của Cụ Hồ nên nhiều đồng bào dân tộc Vân Kiều của xã miền núi Vĩnh Trường như ông Hồ Vê, Hồ Hà, Hồ Hằng, Hồ Pừng… không những nhận thức được lý tưởng cách mạng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên cường bám trụ đánh Mỹ đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc, mà còn trở thành những cán bộ đảng viên gương mẫu được dân quý, dân tin. Sau ngày quê hương được giải phóng, được học cái chữ của Cụ Hồ, nhiều con em của dân bản như Hồ Văn Sơn, Hồ Thị Lam, Hồ Hải Sâm, Hồ Thị Mừng, Hồ Thị Hiền… không những trở thành điển hình sản xuất giỏi làm gương cho đồng bào dân tộc Vân Kiều noi theo mà còn trở thành những cán bộ chủ chốt của địa phương, lãnh đạo dân bản đổi mới sản xuất để xây dựng quê hương ngày một thêm giàu đẹp. Đặc biệt, nhiều con em của đồng bào Vân Kiều xã Vĩnh Trường còn phấn đấu thi đỗ vào các trường Đại học, Cao đẳng. Nhiều người trong số họ đã trở thành kỹ sư lâm nghiệp, giáo viên, nhạc sĩ. Trong lần về thăm quê hương, Hồ Thị Khai tốt nghiệp trường Cao đẳng văn hóa Hà Nội đã sáng tác bản nhạc nền cho điệu múa Tạc Xình truyền thống của dân tộc mình. Điệu múa Tạc Xình là tiết mục văn nghệ được cán bộ, đồng bào Vân Kiều các xã miền núi yêu thích nhất trong các buổi liên hoan văn nghệ mừng Đảng mừng Xuân....
19/08/2023 lúc 16:57
N
hư một tất yếu: Khi đã cùng sống, cùng sẻ chia trong gian khó thì sự cảm thông và gắn bó thường rất sâu đậm. Ta gặp điều đó khi nhà thơ Hữu Thỉnh viết bài thơ tặng thầy mình nhân ngày 20 - 11, có đoạn:
… Đời mau quá, tóc thầy khói phủ
Giáo án mong manh, bão giật đời thường
Cây trước cửa, gió ở ngoài trang vở
Thầy một mình vật vã với văn chương
Đang mưa bão, đường về ngập nước
Giở trang Kiều thầy giảng, chạnh lòng đau!
Thương cái đau của Thúy Kiều, từ sự liên tưởng, nhà thơ “chạnh lòng đau” cho thầy mình giữa đêm lạnh “vật vã” với giáo án cùng những gian khó thường nhật. Tôi không có vinh dự được dạy nhà thơ nhưng cũng là thầy giáo ở thời điểm nhà thơ Hữu Thỉnh là học trò nên với những gì đã trải nghiệm, tôi hiểu được nỗi lòng của thế hệ học sinh “mang mũ rơm đi học trên đường dài” của bốn mươi sáu năm trước. Đúng là đã có “một thời bom đạn”, “khoai sắn qua ngày” mà tình thầy trò thật đẹp!
Tháng 11 năm nay, trong tâm trạng đó, tôi háo hức vượt hơn 700km để về dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập của trường cấp 3 Hạ Hòa – Phú Thọ. Đây là nơi tôi đã dạy và cũng đã học được rất nhiều điều quý giá. Với tôi đây là nơi gắn với hai sự khởi đầu to lớn: Khởi đầu nghề nghiệp với những kỷ niệm sâu sắc và khởi đầu cuộc sống gia đình với những kỷ niệm ngọt ngào. Vì vậy tôi xem mảnh đất trung du này là “quê hương thứ hai” hay nói như Chế Lan Viên:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn
Quả thật: Tình đồng nghiệp, tình thầy trò và tình dân đã là một tài sản tinh thần quý giá “kết tủa” trong tôi, một động lực cho tôi đi tới trong những năm tháng sau đó khi đi B, đi K và làm các công vụ khác nhau. Năm tháng đã không thể xóa nhòa kí ức đó.
Ở tuổi đời 50, trường đã có những đóng góp to lớn nên Nhà nước đã trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhì. Từ mái nhà chung này, hàng vạn học sinh đã bước vào cuộc sống, không ít em đã trở thành cán bộ cao cấp, tướng lĩnh, nhà khoa học, danh nhân tên tuổi và biết bao em khác đang là cán bộ, chiến sĩ, người lao động xuất sắc, tin cậy trên các mặt trận. Nửa thế kỷ với một mái trường bị bom Mỹ đánh sập 1965, rồi mười năm phải vượt sông sơ tán vào tận chân núi và rồi mái trường cao tầng to đẹp hôm nay, có biết bao điều xúc động tại nơi này. Lễ kỷ niệm đã được tổ chức trang trọng và thấm đẫm nghĩa tình. Trong hai ngày lưu lại mái trường xưa, tôi được dự nhiều hoạt động và nhiều cuộc tiếp xúc. Đã có thật nhiều xúc động mà cho đến lúc cầm bút viết những dòng này vẫn còn nóng hổi trong tôi. Vì “Niềm vui được chia sẻ là niềm vui được nhân đôi” nên tôi muốn thuật lại một số điều lắng đọng để bộc bạch với mọi người mà chủ yếu là với các đồng nghiệp và học sinh thân thiết của mình....
19/08/2023 lúc 16:57
N
hững ngày cuối năm, trời Sài Gòn se lạnh. Mỗi sáng mai thức dậy, chợt thấy bồi hồi khi những vạt nắng ngoài sân đã pha màu tết, vàng hanh. Mỗi chiều, ngồi nhớ bâng khuâng theo lời gió xôn xao, trên những tàn cây trút lá bên hiên. Chợt buồn. Năm tháng lụn tàn!
Mới đó thôi, mà đã hơn nửa thế kỷ lưu lạc quê người. Trên bước đường trôi nổi khắp phương Nam, không biết bao lần tôi đã gặp những đồng hương để lại trong lòng mình những ân tình thấm đẫm, càng thêm gợi nhớ quê nhà.
Ngày đó, khi còn là chàng trai trẻ. Một hôm có việc phải về Cần Thơ, đến bến bắc Mỹ Thuận thì trời sẩm tối. Phà kẹt từ chiều bởi phải nhường ưu tiên cho đoàn xe nhà binh chuyển quân ra trận. Đang đứng bên cửa sổ, nhìn xuống lòng sông Tiền đục ngầu, mênh mông, nhạt nhòa trong cơn mưa cuối mùa. Bỗng một anh Trung sĩ từ trên một chiếc GMC nhảy xuống, tìm đến nói với người bán thuốc lá dạo: “Bán cho tui 3 đồng, 4 điếu ruby”. Rõ ràng là giọng Quảng Trị không lẫn vào đâu, tôi nghe mà lòng bồi hồi, vội gợi chuyện: “Trung sĩ là người Quảng Trị?”. Không trả lời, mà anh ta hỏi ngược lại: “Anh cũng người Quảng Trị?”. Tôi gật đầu, anh ôm chầm lấy tôi chẳng khác nào bằng hữu thân tình, cách xa lâu ngày mới gặp lại, nét mặt hớn hở như trẻ con:“Trật đi mô được, nghe giọng là biết đồng hương liền”. Anh đốt thuốc và chìa cho tôi một điếu. Rồi kể: “Tui học trường Nguyễn Hoàng, thi rớt tú tài nên bị động viên vào Đồng Đế. Ra trường, chẳng thân thế nên bị đưa về miền Tây làm lính trận”. Té ra, anh cũng cùng huyện Hải Lăng với tôi. Anh ở xã Hải Kinh, còn tôi Hải Dương, cách nhau một cánh đồng cò bay thẳng cánh. Chưa nói được gì thì phà cặp bến. Trước khi nhảy lên xe, hai chúng tôi bịn rịn ôm nhau một lần nữa, ước hẹn với nhau có ngày gặp lại ở quê nhà. Dạo đó làm gì có điện thoại di động như bây giờ, anh nhặt bao thuốc lá dưới sàn phà, xé làm đôi ghi địa chỉ của hai đứa. Tôi còn nhớ như in, anh tên là Trần Lợi, KBC 4496. Đoàn xe chuyển bánh, anh cố ngoái lại, vẫy tay chào tạm biệt đồng hương. Tôi bước lên cầu bắc mà lòng xao xuyến như vừa chia tay với một người ruột thịt, chẳng biết có còn gặp lại hay không! Trở về Sài Gòn, tôi viết thư cho Lợi ngay, trong thư toàn nhắc chuyện quê nhà với lòng hoài hương canh cánh. Tất nhiên, cuối thư tôi không quên cầu chúc cho anh bình an, chân cứng đá mềm. Hơn mười ngày sau, lá thư được chuyển trả lại cho tôi với dòng ghi chú trên phong bì: “Hoàn lại người gởi, người nhận đã tử trận!” Tôi nhớ, lúc đó mình đã cố nén, nhưng nước mắt cứ trào. Thế là Trần Lợi đã hồi hương, anh đã làm một chuyến trở về không hề hẹn trước.
Mười mấy năm trước đây, nhân một chuyến về Hà Tiên công tác. Lúc bấy giờ từ phía núi Tô Châu, nối liền với trung tâm thị xã, còn là chiếc cầu phao bập bềnh trên sóng nước. Buổi chiều, tôi từ khách sạn Đông Hồ thả bộ ra đầu cầu hóng gió thì gặp một anh xe ôm chào mời bằng giọng không Quảng Bình thì cũng Quảng Trị. Hỏi ra, thì đúng đồng hương. Quê quán anh ở làng Nại Cửu, huyện Triệu Phong. Năm 1979, đi nghĩa vụ quân sự, chiến đấu ở mặt trận 479 bên nước bạn Campuchia. Xuất ngũ, định ghé lại Hà Tiên chơi mấy ngày cho biết. Nào ngờ duyên số đẩy đưa, anh bén duyên với một người con gái nơi đây, rồi rứt ra không đành. Thế là thành vợ, thành chồng và ở lại luôn. Tên anh là Lê Trọng Tình, cái tên phản ảnh một cách chính xác với tính cách con người. Tôi rủ anh vào một quán cà phê ven sông lộng gió biển khơi. Anh rớm nước mắt khi nhắc đến thời thơ ấu quê nhà. Những lần sung sướng được mẹ cho đi theo lên chợ thị xã, đôi chân trần bé bỏng chạy lúp xúp sau gánh rau nặng trĩu của mẹ, thế mà lòng vẫn thấy háo hức vô cùng. Ngang qua chùa Tỉnh Hội, anh đã thẩn thờ vì lần đầu tiên được thấy một công trình đồ sộ đến thế. Trước sân chùa, dòng sông Thạch Hãn lượn quanh, trơ đáy những ngày hè rát bỏng ngọn nam Lào. Tình nói: “Ở đây ít đồng hương lắm, nên gặp anh, em mừng hết lớn. Dù anh em miềng mới gặp nhau lần đầu, nhưng em thấy chẳng khác nào ruột thịt. Quê miềng (mình) khổ lắm, nên tha phương mà gặp được đồng hương là không có chi bằng”. Giọng của Tình chân thật và rất đơn sơ. Nghe là nhớ củ sắn, củ khoai, mùi đất bùn đồng cạn. Là nhớ tiếng kẻo kẹt sau lũy tre còm, ngàn đời vang vọng nỗi nhớ không nguôi. Khi không còn giữ kẻ, Tình nói: “Anh cứ ở khách sạn cho thoải mái, nhưng còn ở đây ngày nào cứ ghé nhà em ăn cơm. Mỗi sáng, em sẽ ghé đón anh, muốn đi đâu, em chở đi. Không tiền nong chi cả. Thú thật với anh, trước đây vợ chồng em lo nuôi hai cháu cũng vất vả lắm. Trời thương, năm ngoái em trúng 5 tấm vé số đặc biệt, thế là đổi đời. Nhưng vẫn cứ giữ nghề chạy xe ôm như bình thường để tránh mắt thiên hạ. Có tiền, vừa rồi em đã đưa vợ con về thăm nội. Xây lăng, đắp mộ cho ông bà, không mả đố ả làm nên! Em cũng dựng lại mái nhà cho mẹ em ở với vợ chồng thằng út. Rứa cũng là phúc đức lắm rồi phải không anh”. Tình thật thà như đếm. Hôm đầu tiên ghé nhà anh ăn cơm, tôi có mua chút quà cho hai đứa nhỏ. Đứa con gái lớn được anh đặt tên là Lê Thị Nại Cửu, thằng út là Lê Triệu Phong, chắc là Tình nhớ quê lắm mới đặt tên con như vậy. Người Quảng Trị ở đâu cũng khó lòng mất gốc. Anh ghé vào tai tôi trách móc: “Anh cứ làm khách, anh tới ăn với vợ chồng em bữa cơm là em vui lắm rồi, bày chi quà cáp. Anh biết không, từ ngày lấy vợ đến nay, khách đến nhà em toàn là bà con bên vợ. Năm thi mười họa mới có một người bên mình, toàn là tha phương cầu thực. Chừ được đồng hương là nhà báo như anh đến thăm, em nở mặt nở mày với bên vợ lắm”....
19/08/2023 lúc 16:57
N
hững ai đã từng đến chợ Sải chắc chắn sẽ không thể quên vị ngọt cay của kẹo ú, tiếng xèo xèo của bánh khoái, vị bùi béo của bánh đúc, chua ngọt của nem, đậm đà của chả, dẻo ngon của những cái bánh chưng, mùi thơm đặc biệt quyến rũ của nem lụi và cảnhvui nhộn trên bến dưới thuyền với những hàng tôm cá tươi chong. Đó là ký ức của những ngày một trăm đồng mua được mười cái kẹo ú trong tuổi thơ tôi!
Bao nhiêu thế hệ ở quê mình đã lớn lên, nếm được những dư vị của đất và làm nên tên đất. Những dư vị đã theo bao gánh hàng, thuyền buôn ùn ùn toả đi khắp nơi. Từ Triệu Phong vào Hải Lăng, ngược Ba Lòng, lên Cam Lộ, ra Vĩnh Linh, Quảng Bình.
Xưa hơn, chợ Sải còn là trung tâm buôn bán của rất nhiều mặt hàng phong phú. Từ sản vật của các địa phương lân cận như vật dụng làm bằng tre của Phương Ngạn, bún Linh Chiểu, bánh ướt Phương Lang, đậu mè, chuối, rau của Nại Cửu,.v.v. Đến những mặt hàng “xa xỉ” như vải vóc, đồ đồng, dép guốc của các nơi xa mang đến. .............
19/08/2023 lúc 16:57
I. Đôi nét về làng Phú Hội.
P
hú Hội là một làng vùng biển thuộc xã Triệu An - huyện Triệu Phong - tỉnh Quảng Trị. Phía nam giáp làng Hà Tây, phía bắc giáp sông Thạch Hãn và xóm Tuần của làng Hà Tây, phía tây giáp sông Cụt, phía đông giáp biển Đông. Diện tích đất tự nhiên của làng Phú Hội 132 ha, trong đó đất nông nghiệp 28 ha, nuôi trồng thủy sản (tôm và cá) 22 ha, số còn lại là đất thổ cư và đất lâm nghiệp trồng rừng phòng hộ ven biển. Dân số 346 hộ với 1455nhân khẩu.
Phú Hội là một làng hình thành khá muộn so với nhiều làng xã người Việt trên vùng bắc và nam Cửa Việt. Lúc mới thành lập làng có tên là Phường Mành - tên được gọi theo một loại ngư cụ đánh bắt cá nục ở trên biển. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII làng có tên là Phụ Lũy (Theo địa bạ của làng lập vào năm Cảnh Trị thứ 7 (1669) dưới thời vua Lê Huyền Tông ghi tên làng là Phụ Lũy. Địa bạ hiện nay do ông Nguyễn Công Liên - Hội chủ làng lưu giữ). Phụ Lũy cũng là tên được Lê Quý Đôn chép trong “Phủ biên tạp lục” . Đến thế kỷ XIX, làng Phụ Lũy đổi thành Phó Hội (Theo Giáp tư địa đồ được lập vào năm 1812 dưới thời vua Gia Long, Giáp tư địa đồ hiện nay do ông Nguyễn Công Liên - Hội chủ làng lưu giữ). Việc làng đổi tên từ Phụ Lũy thành Phú Hội mang nhiều ý nghĩa: Đây là nơi hội tụ sự giàu có để trở thành nơi đô hội, sầm uất; có lẽ lúc này thương cảng Cửa Việt nói chung và tại nhánh sông Cụt trước mặt của làng đã trở thành nơi đô hội - một cảng thị trên sông, là trung tâm thương mại, nơi tấp nập những thuyền buôn bán ra vào neo đậu. Sau ngày đất nước thống nhất, Phó Hội đổi tên thành Phú Hội (1977).
Công lao khai khẩn dựng đặt hương hiệu để hình thành nên làng xóm trên mãnh dất làng Phú Hội thuộc về thủy tổ 4 họ: Đinh, Lê, Trần, Nguyễn có gốc từ vùng Thanh Hóa vào đây lập nghiệp. Tuy nhiên, những người thuộc thế hệ đầu tiên đặt chân đến mãnh đất này là vị thủy tổ họ Đinh (Gia phả họ Đinh đến nay đã 18 đời, họ Nguyễn 13 đời). Hai họ Trần, Lê thế tục ở làng không được bao lâu thì đoản mạch, hiện không còn người nối nghiệp. Những thời kỳ tiếp theo cho đến nay nhiều dòng họ đã nhập cư vào làng, đến nay làng có 13 họ. Cháu con của làng qua nhiều thế hệ vẫn đồng tâm hiệp lực, chịu khó, chịu khổ xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh.
Để tưởng nhớ công ơn của các vị tiền nhân, các thế hệ con cháu của làng Phú Hội vẫn truyền lưu việc tế tự hàng năm, vào ngày 15/ 6 Âm lịch tế Đại tự cầu an tại Đình làng, ngày 20/ 12 Âm lịch tế các họ không ai thờ tự tại Miếu Hiệp tự và đình làng, ngày 15/2 Âm lịch tổ chức lễ hội Cầu Ngư.
II. Lễ hội Cầu Ngư của làng Phú Hội.
Lễ hội Cầu Ngư của làng Phú Hội được diễn ra vào ngày 15 tháng 2 Âm lịch hàng năm. Đây là lễ hội lớn nhất, quan trọng nhất, là một hình thức sinh hoạt văn hóa, là sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển để rồi truyền lưu qua nhiều thế hệ. Lễ hội mang những nét độc đáo, riêng biệt của một làng nghề - nghề biển, mục đích lớn nhất của lễ hội là cầu quốc thái dân an; cầu lộc, cầu tài cho con em dân làng, cầu mưa thuận gió hòa với những chuyến xa khơi may mắn.
Lễ hội Cầu Ngư bắt nguồn từ câu chuyện tương truyền: Ngày xưa, có một con cá Ông (cá Voi) khi lụy (chết) trôi dạt vào bờ biển của làng, người dân đem về chôn cất, tôn lên làm thần lập miếu thờ cúng; từ đó trở đi các tàu thuyền con em trong làng khi ra khơi đánh cá đều gặp nhiều may mắn, tránh những tai ương, rủi ro của biển cả, lại gặp những vụ mùa bội thu tôm cá đầy thuyền. Từ đó trở đi việc an táng các loại cá lớn chủ yếu là cá Voi và cá Phớn khi lụy (chết) trôi dạt vào bờ được người dân coi trọng và trở thành tục lệ của dân làng Phú Hội. Theo quy định bất kỳ người dân nào của làng khi bắt gặp Ông lụy đều phải báo để làng đứng ra lo tang lễ, người đầu tiên thấy Ông phải đứng ra làm trưởng nam chịu tang như cháu con thân nhân trong gia đình và phải coi đó là điều may mắn, hạnh phúc, vinh dự của mình...
19/08/2023 lúc 16:57
L
ịch sử Việt Nam nói chung và Quảng Trị nói riêng trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và để lại những di sản văn hoá có giá trị trong đó có cả văn hoá vật chất và văn hóa tinh thần. Kiến trúc là một dạng của văn hoá vật chất mà ở bất kỳ vùng nào cũng có, đây là dấu ấn ghi lại những điều kiện sinh sống và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của cư dân trong một vùng vào những thời kỳ nhất định.
Ở các công trình kiến trúc nói chung, luôn biểu hiện rõ những đặc điểm riêng của từng vùng và hơn thế nó còn biểu hiện tính cộng đồng văn hoá mà bản thân nó chịu ảnh hưởng trong quá trình tồn tại và phát triển. Quá trình phát triển của đình làng Quảng Trị gắn liền với việc mỡ mang bờ cõi về phía Nam của dân tộc Việt Nam. Đó là quá trình phát huy các yếu tố nội sinh của văn hoá dân tộc mà người Quảng Trị mang theo từ đất Bắc vào nhập cư ở vùng đất mới; đó là quá trình cộng cảm văn hoá mà người Việt Quảng Trị chịu ảnh hưởng trong thời gian chung sống với người Chăm trên vùng đất bản địa của họ. Mặt khác, vì sống trong điều kiện khắc nghiệt nắng lắm, mưa nhiều, bảo lụt triền miên nên kiến trúc đình làng Quảng Trị phải thay đổi để thích nghi với môi trường. Tất cả các tác động và ảnh hưởng trên tạo cho các ngôi đình ở vùng này có những phong cách riêng, những nét riêng biệt từ quy mô, hình dáng bên ngoài đến trang trí nội, ngoại thất.
1. Vị trí cảnh quan chung của đình làng Quảng Trị.
Xuất phát từ tín ngưỡng dân gian nên cũng giống các công trình kiến trúc khác, từ xưa việc chọn địa điểm và hướng để dựng các ngôi đình là một việc làm hết sức quan trọng đối với mọi người dân làng xã. Việc chọn đất xây dựng đình cần có mặt của các thầy địa lý. Người dân tin và vận dụng khôn khéo thuật “phong thuỷ” để tuân theo chặt chẽ các quy định và tạo ra cảnh quan hài hoà giữa công trình và thiên nhiên. Người xưa coi trọng thuật “phong thuỷ “ vì họ luôn tin tưởng vào sự huyền bí, siêu nhiên, chỉ cần một sơ suất nhỏ thì có ảnh hưởng xấu đến cả cộng đồng dân chúng trong làng:
Toét mắt là tại hướng đình
Cả làng toét mắt một mình chi em.
Đình Quảng Trị thường được xây dựng ở các khu trung tâm, các trục đường giao thông, gần các chợ làng và sông ngòi. Hướng của đình đa phần là hướng chính Nam (Lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng Nam). Hướng Nam vừa ứng hợp với thuật“phong thuỷ“ vừa thích hợp với khí hậu ở Quảng Trị. Trước mặt đình cần có nước, đặc biệt là các dòng sông uốn khúc, bồi đắp ; theo quan niệm đó là thế “tụ thuỷ”, là nơi hội tụ “linh” và “phúc”. Các ngôi đình ở Quảng Trị đa số đều hướng mặt ra bờ sông, bởi dòng sông ngày xưa là mối giao thông quan trọng của người dân trong vùng. Chính dòng sông là mạch nguon chuyển tải các yếu tố văn hoá, vũ trụ để lắng động trong nhận thức, tư duy của người dân. Từ đó nảy sinh ra những nét văn hoá độc đáo mang sắc thái riêng biệt của vùng quê Quảng Trị.
2. Những nét cơ bản về kiến trúc đình làng Quảng Trị.
Sau khi chọn được thế đất và hướng đình thích hợp, người dân bắt đầu dựng đình. Trước kia, các kiểu đình ở Quảng Trị cũng đa dạng và phong phú nhưng qua nhiều lần chiến tranh, cùng nạn thiên nhiên khắc nghiệt đã phá huỷ rất nhiều công trình kiến trúc đình làng. Người dân đã ba lần bảy lượt dựng lại và trùng tu nên về kiến trúc, trang trí, diện mạo các ngôi đình thay đổi rất nhiều. Qua thực tế hiện nay chúng tôi thấy có hai kiểu đình chủ yếu: Đó là một toà đại đình (đình chữ nhất) và hai nếp nhà song ngang (đình chữ nhị)...
19/08/2023 lúc 16:57
B
ão lụt là một tai họa khủng khiếp của thiên nhiên ấn vào loài người. Nó đã cướp đi sinh mạng hàng triệu người mỗi năm trên toàn thế giới.
Vì vậy Liên hiệp quốc đã đưa ra khẩu hiệu như: “Ngày môi trường thế giới, hành tinh xanh,…”.
Ngày xưa, hình như làng tôi dựa vào lũ lụt để thu lợi, để làm ăn.
Trước hết nhờ có lụt mà những ruộng đất bạc màu của làng tôi được phủ một lớp phân bùn non có khi dày vài tấc, đó là loại phân đặc biệt trời cho. Biết bao nhiêu là chất bổ tổng hợp trong bùn non từ rừng Trường Sơn trôi về, xác động vật, thực vật đã bón cho ruộng đất, cây cỏ làng tôi, đã làm cho mùa màng xanh tốt.
........
19/08/2023 lúc 16:57
T
rong số những học sinh các lớp đầu của trường Lê Thế Hiếu, vào những năm 1950-1952, có rất nhiều người làm thơ. Làm thơ là niềm vui, nhưng cũng là trách nhiệm. Làm thơ cho báo tường, để đọc trong các buổi hội họp, để phục vụ các đêm lửa trại hay các buổi mít tinh. Cũng có khi làm thơ để tham dự các giải văn học hay đăng báo. Tôi còn nhớ bạn Minh Quang có bài thơ về chiến thắng Việt Bắc được Hội văn nghệ Quảng Trị trao giải nhất năm 1952. Bạn Lê Hữu Dinh có nhiều bài đăng trên Tạp chí văn nghệ Liên khu IV. Ta tạm gọi đó là thơ “bề nổi”. Bởi lẽ, bên cạnh dòng thơ chính thống này còn có một dòng khác, hoàn toàn riêng tư, các tác giả làm cho mình rồi cất giữ kín đáo, hoạ hoằn mới cho người khác đọc. Dòng thơ ấy là “dòng chìm”, biến mất theo thời gian nếu không được ai để tâm tìm tòi nghiên cứu. Tôi may mắn còn giữ được cuốn nhật ký ghi những ngày xa xôi gian khổ đó và cuốn nhật ký giúp tôi phục hồi một sự kiện “dễ thương” về thơ của cánh vị thành niên thời đó.
.........
19/08/2023 lúc 16:57
M
ột chiều đầu Thu tôi về gặp anh Nguyễn Mạnh Hùng, Hội viên Hội cựu TNXP Quảng Trị. Tiếp tôi trong ngôi nhà nhỏ, đơn sơ, bên ly trà nóng, anh kể cho tôi nghe về những tháng năm “Không thể nào quên” ấy, những chiến tích thầm lặng mà rất đỗi tự hào của Đội Vận tải, thuộc Liên đội TNXP giải phóng Quảng Trị. Nơi mà anh và đồng đội đã không tiếc máu xương hiến dâng tuổi thanh xuân của mình chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng cao đẹp: Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đội Vận tải được thành lập vào tháng 1 năm 1972 gồm có 9 người (2 nữ, 7 nam) tại thôn Xuân Tiến, xã Gio Việt do anh Nguyễn Mạnh Hùng làm đội trưởng. Nhiệm vụ của đội là thu chiến lợi phẩm của địch thất bại bỏ lại sau các cuộc giao tranh, chở những chiến sĩ bộ đội vào bờ Nam Cửa Việt và chở thương binh ngược ra bờ Bắc Cửa Việt để chữa trị, kịp thời; chở lương thực vào tiếp tế cho bộ đội ta ở chiến trường miền Nam, chở những cán bộ lãnh đạo làm nhiệm vụ cách mạng. Nhiệm vụ không trực tiếp chiến đấu trực tiếp với quân thù, nhưng luôn phải đối mặt với nguy hiểm. Máy bay địch bắn phá suốt đêm ngày, dọc bờ biển tàu tuần tra canh chừng nghiêm ngặt, cách một hải lý là Hạm đội 7 của Mỹ - Nguỵ như những “ống nhòm” chĩa thẳng các tuyến đường biển, đường sông, nếu phát hiện có dấu hiệu khả nghi là chúng phóng hoả.
.........
19/08/2023 lúc 16:57
T
rên con đường vào phía Nam Hoành Sơn để tìm đất “vạn đại dung thân” Nguyễn Hoàng đã đến Ái Tử của tỉnh Quảng Trị (1558). Ông chọn nơi đây làm thủ phủ mở đầu cho thời thịnh đạt của các chúa Nguyễn mở đất Đàng Trong, rồi hậu duệ ông lập nên vương triều Nguyễn kéo dài 387 năm (1558-1945); khẳng định họ Nguyễn là dòng họ cầm quyền dài nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Trong gần bốn thế kỷ đó có hai thời kỳ gián cách, tác động lớn đến lịch sử dân tộc, việc phân kỳ lịch sử Việt Nam nói chung và triều Nguyễn nói riêng cũng lấy đó làm mốc thời gian để xét định. Đó là sự thành lập vương triều Quang Trung với kinh đô Phú Xuân sau ngày Nguyễn Huệ ban Chiếu “Lên ngôi” (22-12-1788) và vương triều kháng chiến sau ngày vua Hàm Nghi ban Dụ “Cần vương” (13-7-1885) ở thành Tân Sở. Mốc thời gian này là định vị cuối cùng của một vương triều có chủ quyền, kiên quyết đấu tranh chống ngoại xâm, không chịu chuyển giao chủ quyền và nền độc lập dân tộc cho thực dân Pháp.
Thành Tân Sở có vị trí cực kỳ quan trọng trong lịch sử dân tộc như vậy, nhưng hiểu biết về tòa thành này thì hết sức mờ nhạt, dấu tích trên thực địa hiện là một bãi đất trống không; trong khi đó công việc bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích lại trở nên cấp bách. Đó là lý do cũng là yêu cầu đặt ra cho lãnh đạo tỉnh Quảng Trị, huyện Cam Lộ, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học Việt Nam, Cục Di sản Văn hóa thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và cũng là nguyện vọng của nhân dân trên cả nước. Do vậy, Hội thảo “Thành Tân Sở với phong trào Cần Vương” được tổ chức vào dịp kỷ niệm 125 năm ngày vua Hàm Nghi ban Dụ Cần Vương và vào tối hôm nay: 13-7, Lễ hội “Tân Sở dấy nghĩa Cần Vương” cũng được tổ chức trên “Thánh địa Cần Vương” để kết nối ký ức lịch sử sau nhiều thập kỷ bị lãng quên. Đó là một giải pháp khoa học có ý nghĩa thiết thực mang tầm quốc gia trên con đường nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo để khơi dậy sức sống của một vùng đất gắn liền với vận mệnh dân tộc, với nhà vua yêu nước Hàm Nghi và tên tuổi của nhiều nhân vật khác đã làm rạng danh trong sử sách, tỏa sáng hào quang yêu nước muôn đời cho hậu thế…
Việc tổ chức hội thảo khao học Thành Tân Sở với phong trào Cần Vương, để thể hiện trách nhiệm và góp tiếng nói trung thực, khách quan của giới nghiên cứu và cũng nhằm thể hiện nguyện vọng thiết tha của nhân dân về một vấn đề được nhiều người quan tâm nhưng việc triển khai thực hiện thì không hề đơn giản.
Do khuôn khổ giới hạn về nội dung và thời gian thực hiên nên chủ đề hội thảo chỉ tập trung xung quanh việc khai thác các nguồn tư liệu về thành Tân Sở nhằm khẳng định tính xác thực của tòa thành này gắn với phong trào Cần Vương để có cơ sở xây dựng đề án bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích thành Tân Sở một cách khoa học. Cho đến hiện nay có 18 bản báo cáo khoa học và tham luận gửi đến hội thảo, đánh dấu một thành tựu quan trọng trong việc nghiên cứu về thành Tân Sở và phong trào Cần Vương. Trong đó, công tác sưu tầm, phát hiện xác minh tư liệu là vô cùng quan trọng, sau đó là kết quả mới nghiên cứu về thành Tân Sở gắn với phong trào Cần Vương và đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy tác dụng Khu di tích thành Tân Sở.
1. Về thành tựu tư liệu
Các tác giả đã tra cứu tỉ mỉ các nguồn tư liệu của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam nhất thống chí, Châu bản triều Nguyễn…
Các nguồn tư liệu tiếng Pháp trước năm 1945 cũng được nhiều tác giả tìm tòi nhằm cung cấp những thông tin giá trị qua các công trình của: Charles Gosselin, L’empire d’Annam, Imprimerie D’Extrême Orient, Hanoi, 1904; H. de Pirey, Une Capitale Éphémère: Tân Sở, BAVH, 1914; A. Laborde, tỉnh Quảng Trị, BAVH, tập VIII, 1921; Jabouile, Une page de l’histoire du Quảng Trị, Septembere 1885, BAVH, No.4, 1923; L.Cadière et cosserat, Les postes Militaires du Quảng Trị et du Quảng Bình en 1885-1890; BAVH, Janvier-Mars 1929; B. Bourottel, Aventure du Roi Hàm-Nghi, BAVH, 1929; Marcel Gaultier, Le Roi Proscrit, Hà Nội, IDEO, 1940; Delvaux (a), Quelques précicisions sur une période troublée de l’histoire d’Annam, BAVH, Juillet-Septembre, 1941 và bài Le camp de Tân Sở (Căn cứ Tân Sở), BAVH, 1942; Charles Fourniau, Annam-Tonkin 1885-1896, Edtions Harmattan, Paris, 1989; cùng các công trình nghiên cứu về Tân sở và phong trào Cần Vương của hai miền Bắc - Nam trước năm 1975 và các công trình sau năm 1975 đến nay. Đặc biệt là nguồn tư liệu khai thác thực địa tại vùng Cùa và các nơi khác bao gồm gia phả, di tích, di vật có liên quan đến Tân Sở.
Thông qua các báo cáo khoa học, các tác giả cung cấp nhiều thông tin mới về thành Tân Sở và phong trào Cần Vương, đánh dấu một thành tựu quan trọng về tư liệu thành Tân Sở từ trước đến nay nên đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề vốn hoài nghi do thiếu tư liệu và cũng xuất hiện nhiều tồn nghi khác trên cơ sở tư liệu mới phát hiện nhưng chưa có điều kiện để xác minh.
Trong các tư liệu mới sưu tầm có giá trị là văn bản Dụ Cần Vương bằng chữ Hán; gia phả ông Trần Văn Hạnh – người đã nhường ngôi nhà của mình làm hành cung cho vua Hàm Nghi và cận thần nhà vua trong thời gian lưu trú tại Tân Sở; giếng nước ở làng Bảng Sơn nơi vua Hàm Nghi đã sử dụng; một số viên gạch và đạn thần công liên quan đến thành Tân Sở, một số văn bản Hán Nôm làng xã ở vùng Cùa vào thế kỷ XIX. Đó là những nỗ lực sưu tầm, xác minh tư liệu của các tác giả Đỗ Bang, Nguyễn Quang Trung Tiến, Nguyễn Bình, Phan Thanh Hải, Nguyễn Thanh Tùng, Lê Đình Hào, Ngô Thanh Bảo… Tài liệu sưu tầm lần này cũng góp phần làm sáng tỏ nhiều nhân vật tham gia thời Tân Sở-Cần Vương qua các báo cáo của các nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, Trương Công Huỳnh Kỳ, Nguyễn Tất Thắng, Lê Tiến Công, Nguyễn Văn Đăng, Lê Quang Thái… Các tư liệu này sẽ tiếp tục xác minh chọn những thông tin chính xác để khắc vào các tấm bia, đền thờ, các bức phù điêu ở Khu di tích thành Tân Sở khi đề án tôn tạo được triển khai...
19/08/2023 lúc 16:57
LTS. “Người vợ Vệ quốc đoàn” của Lê Tâm Tiềm là một Hồi ký tương đối “dài hơi” được tác giả chia ra thành 5 chương: 1 - “Quê hương - lửa đạn”; 2 - “Đọa đày và đấu tranh”; 3 - “Người chị”; 4 - “Chị và em”; 5 - “Quê hương ngày trở lại”… Phản ánh khá điển hình và sâu sắc số phận người phụ nữ bên bờ Nam Quảng Trị có chồng tập kết ra Bắc.
CV. Giới thiệu nhiều kỳ, rất mong bạn đọc đón xem.
I. Quê hương – lửa đạn.
Chị lấy chồng năm 20 tuổi. Đơn vị của anh tổ chức cưới.
Lễ cưới giản dị. Một bình hoa các anh hái trong vườn, có cây chuối con đứng cao ở giữa, chung quanh chủ yếu là hoa dại mọc chen lấn trong các bụi tre, bàn là cánh cửa hông kê cao bằng các gốc cây.
Đại diện đơn vị của anh thay mặt hai gia đình tuyên bố lễ cưới. Anh và chị đứng cạnh nhau một bên. Vị đại diện nói: “Kể từ hôm nay đồng chí Trung và đồng chí Quốc là vợ chồng. Có nghĩa vụ chăm sóc, lo lắng, nâng đỡ lẫn nhau để công tác ngày càng tiến bộ”. Vị đại diện cũng nói qua những thắng lợi giòn giã trên khắp các chiến trường Việt, Miên, Lào mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ đã buộc Pháp phải ký vào Hiệp định đình chiến Giơnevơ. Dòng sông Hiền Lương là ranh giới tạm thời để quân hai bên tập kết. Ta phía Bắc. Hai năm sau tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Còn sáu ngày nữa Hiệp định có hiệu lực. Nhiệm vụ của mọi người là tiếp tục đấu tranh dưới cờ Việt Minh cho đến ngày toàn thắng vẻ vang.
Dưới ánh sáng mờ mờ của sao trời tháng 7, đoàn nhà trai gồm những đại diện đơn vị chú rể, gia đình cô dâu, và xóm làng tham dự lễ cưới chung nhau quanh khoảng sân đất nện. Mọi người vui vẻ, hồ hởi chúc tụng, mong cho cô dâu chú rể bên nhau, như chim liền cánh, như cây liền cành. Những tiếng cười, lời nói đều kiềm xuống vừa đủ nghe, không một ánh đèn, ngọn đuốc, đến đóm lửa từ điếu thuốc cũng được khum tay che kín. Tất cả để hòng tránh những đôi mắt cú vọ rình rập, hơn nữa cách đây khoảng năm bảy trăm mét về phía Đông, vượt qua một cánh đồng phẳng lỳ như mặt kính trên đất làng An Hưng, là một đồn Tây. Gần hơn, phía bắc là đồn Vân Hòa. Tụi “Tề” thì không dái ló mặt đã đành, nhưng tụi “gian” thì thật không biết đâu mà lường. Bởi vậy lễ cưới được kết thúc chóng vánh. Đơn vị nói gởi anh cho gia đình một đêm, mờ sáng phải có mặt tại đơn vị. Anh chị dẫn nhau vào buồng tân hôn. Gia đình lại thổi nồi cơm để đùm gói cho anh lên đường. Gà gáy lại anh khăn gói ra đi, chị tần ngần nhìn theo, không ai đưa tiễn vì sợ lộ đường đi, anh nhảy qua ruồng tre, lách qua vườn bên cạnh, hút vào màn đêm. Anh hẹn “Hai năm sau” chị hốt hoảng nhớ lại, chân tự nhiên nhủn đi, cả người rụi xuống bên cạnh cột hiên, điểm bám víu cuối cùng của chị giây phút này.
Hòa bình lập lại. Chị và mẹ cùng ba cháu em từ nơi sơ tán – cũng trong làng thôi, cách một con sông – về lại xóm mình – xóm Đông Bội, bắt tay vào phục hóa vườn tược, che bên gốc mít đã trụi hết cành lá cái trại để chui vô chui ra tránh mưa đỡ nắng, chị lãnh đạo gia đình và là lao động chính, có sự hỗ trợ của cô em, cậu út và chị kế nó thì còn nhỏ quá. Chị phác định chỉ cho cô em giúp thời gian đầu mà thôi, cái lúc ba tua lùa một nầy – lo chỗ ở, lo khai hoang, lo canh tác – còn em phải đến trường, ở đây là phần việc của chị, là công tác của chị. Mẹ chị đã qua tuổi bốn mươi và bệnh hoạn.
Mẹ bị nạn trong cuộc càn hơn năm trước ngày bọ chết. Theo những người cảnh giới và chị du kích kể lại. Tây nó rút khoảng xế trưa, nhưng không hiểu sao còn lại 15,17 thằng – chị du kích không đếm được cụ thể – trẩn lại nằm im thin thít dưới bờ ao. Mẹ thấy Tây rút vội vã gởi thằng con hơn tuổi để chạy về xem nhà còn lại cái chi. Vừa đến sân nhà, một thằng Tây đen tóm lấy mẹ, tay bịt miệng lôi tuột xuống ao. Nó tuột quần mẹ. Chị du kích nghe mẹ hét: “Bọ con Trung ơi…cứu”. Chỉ chừng đó, một báng súng đập vào đầu mẹ, một tiếng “hự” rền đặc, đơn côi. Chúng xé áo mẹ nhét vào mồm, ấn đầu mẹ vào giữa hai cây tre, xé quần mẹ cột tay, cột chân. Thấy mẹ nằm bên bờ ao, đầu chui vào bụi tre, hai tay giơ tới trước, gối quỳ, mông chổng về phía ao. Chúng nó thay nhau bu lấy mẹ… cũng có lúc thằng làm thằng đợi. Chị du kích đếm đến lượt thứ hai nhăm, thấy không khớp số người nên bỏ không đếm nữa. Chị du kích khẳng định chỉ 17 thằng hoặc 15 thằng không thể nhiều hơn. Chị du kích nói: “Sôi uất căm hờn nhưng chẳng biết làm sao”. Dù là du kích nhưng chị vẫn không có súng. Trời nhá nhem tối, chính bong tối nhờ nhờ lại lợi thế cho chị, có thể vén nhẹ lá các cây ngụy trang quan sát rõ hơn, rộng hơn. Chúng nó rục rịch rút lui sao đó, thấy tụm lại, một thằng nói thì thầm tay chỉ thằng này thằng nọ. Chị nghĩ đây là cơ hội tiêu diệt lũ dã man, bầy súc vật. Quả lựu đạn chị vẫn cầm trên tay, chị ấn mạnh chày xuống đầu gối, nhẩm đếm: một, hai, ba hết chữ ba thêm một nửa quãng nữa chị mới ném, trúng ngay giữa đám, nhưng thật xui xẻo quả đạn của chị cứ xì xì um khói mà không nổ. Tiếc quá, chị chỉ còn hai quả...
19/08/2023 lúc 16:57
C
uộc chiến tranh đã đi qua hơn một phần ba thế kỷ, nhưng nó chưa đi qua trong bữa cơm, giấc ngủ của những bà mẹ Việt Nam. Mẹ còn nhớ như in ngày tiễn chồng, tiễn con lên đường ra trận, mẹ vẫn biết chiến trường gian khổ lắm, ác liệt lắm, sự sống, cái chết chỉ cách nhau gang tấc. Cũng như mẹ, ở ngoài mặt trận anh có tính toán gì đâu, khi trong anh hình ảnh mẹ già: “năm năm, tháng tháng, ngày ngày với gọng rau, ai có biết lòng tôi đau như cắt…” Song có nỗi đau nào bằng nỗi đau mất nước; anh đã hiến trọn đời mình cho “mẹ hiền Tổ quốc”.
Không những mẹ mất anh, mẹ mất luôn phần hài cốt của anh, điều này càng về cuối đời nỗi đau trong lòng mẹ càng nhân lên gấp bội. Mẹ ước gì trước lúc nhắm mắt xuôi tay mẹ được tận mắt nhìn thấy và tự tay thắp nén nhang lên phần mộ của chồng, của con, mẹ đã làm tròn bổn phận một người vợ, người mẹ; người đang sống với người đã khuất. Nhưng mẹ chưa than phiền với ai lấy nửa lời khi mà Đảng và Chính phủ đã quan tâm ban hành nhiều chính sách đối với người có công với nước; khi mà hàng ngàn nấm mộ ở các nghĩa trang nay chung dòng chữ “liệt sỹ chưa biết tên”…
Là những người lính hơn ai hết các anh thấu hiểu nỗi mất mát to lớn của những người mẹ mất con, người vợ mất chồng, những đứa con chỉ biết mặt bố qua những tấm ảnh bạc màu theo năm tháng. Nỗi khắc khoải mong chờ nhận được phần hài cốt của chồng, của cha, của con mà càng về cuối đời nỗi khắc khoải càng nhân lên gấp bội. Càng thấu hiểu nỗi khổ tâm của các mẹ, các chị, của thân nhân liệt sỹ bao nhiêu các anh càng day dứt bấy nhiêu, khi mà hài cốt đồng chí đồng đội một thời “viên thuốc bẻ đôi, tấm chăn một nửa” đang nằm rải rác giữa đại ngàn Trường Sơn. Các anh đã tự nguyện cùng nhau trở lại Trường Sơn, trở lại nơi một thời cả nước dấy lên phong trào: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Đã trở thành lý tưởng cách mạng cao đẹp của lớp lớp thanh niên lúc bấy giờ. Nơi một thời đánh địch mà đi, mở đường mà tiến; đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng. Nơi mà hàng ngàn liệt sỹ mãi mãi nằm lại dưới những cánh rừng giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ. Để cho đất nước có ngày hôm nay; có con đường Hồ Chí Minh gắn với những chiến công hiển hách.
Sau bao nhiêu năm lăn lộn với cuộc chiến tranh, tháng 1/1989 đại uý Mai Thanh Hùng được rời quân ngũ, mang theo trên đầu những hạt bom bi quái ác không phẩu thuật được (thương binh loại 3/4). Khi ra quân, anh không trở về nơi chôn nhau cắt rốn (xã Triệu Nguyên, huyện Đăkrông) mà anh quyết định lập nghiệp tại thị trấn Khe Sanh, huyện Hướng Hoá, để có điều kiện trở lại Trường Sơn, trở lại chiến trường một thời gắn bó. Ý nghĩ này ấp ủ trong anh từ những ngày đầu mới rời quân ngũ, mãi đến năm 1990 khi có tổ chức Cựu chiến binh ra đời và đi vào hoạt động, anh bày tỏ nguyện vọng của mình với Hội CCB thị trấn Khe Sanh, Hội CCBVN, phòng Lao động thương binh xã hội huyện Hướng Hoá và được các tổ chức đồng tình ủng hộ, được Đảng uỷ, UBND, các đoàn thể thị trấn Khe Sanh động viên khích lệ. Đội tìm kiếm, quy tập mộ liệt sỹ của Hội CCBVN thị trấn Khe Sanh được ra đời từ đấy. Nói sao hết những khó khăn vất vả của những người lính trên mình mang đầy thương tích, mà phải vượt qua bao núi cao, suối sâu…công việc tưởng chừng như đáy bể mò kim, như muối bỏ bể. Không những thế mà các anh còn phải cảm thông với vợ, con khi mà kinh tế thị trường đã đi vào đời sống của đại bộ phận xã hội. “Người người làm giàu, nhà nhà làm giàu”, còn các anh thì tình nguyện trở lại Trường Sơn để thực hiện trọn vẹn nghĩa tình, để từ trong sâu thẳm của lòng mình không còn hổ thẹn với đồng chí đồng đội.
Với cương vị là đội trưởng Đội quy tập, Mai Thanh Hùng đã tập hợp được 11 hội viên gồm Nguyễn Hữu Cừ, Hoàng Văn Thạch, Phan Văn Quyến, Hồ Văn Hiệu, Nguyễn Xuân Thành, Trần Đình Thi, Trần Đình Lâm, Hồ Đại Số, Hồ Văn Sơn, Võ Bình Dương, Nguyễn Thành Nam. Trong 12 đồng chí có bốn đồng chí là thương binh, một bệnh binh; có 11/12 là hưu trí. Lớn tuổi nhất là đồng chí Nguyễn Hữu Cừ 70 tuổi thương binh 4/4; nhỏ tuổi nhất là đồng chí Nguyễn Thành Nam 24 tuổi. Là những người đầy nhiệt tình và tâm huyết tình nguyện “ăn cơm nhà tìm cho ra đồng đội”. Họ cùng nhau trở lại Trường Sơn trong đội hình hành quân như tiểu đội ngày nào chỉ khác vai không mang súng, đầu đội mũ không sao, vững chắc chiếc gậy ngày nào và đôi dép cao su bốn quai thít chặt. Còn lương thực, thực phẩm mang theo thì ai có gì mang nấy nhưng trong ba lô của mỗi người phải có dụng cụ đào bới như cuốc, xẻng, dao, rựa dùng để phát đường; hương, ni lon, giấy đỏ để bao gói hài cốt liệt sỹ. Các anh còn mang theo nồi niêu, xoong chảo, bát đũa, môi thìa để còn “tác chiến” trong những ngày hành quân… Nhớ ngày đầu mới thành lập Đội quy tập có năm tự nguyện đó là: tự nguyện thành lập Đội; tự nguyện bỏ kinh phí gia đình vào việc tìm kiếm, cất bóc, đưa hài cốt liệt sỹ về bàn giao cho nghĩa trang liệt sỹ huyện; tự nguyện làm việc ngày không tính giờ; tự nguyện tuần không tính ngày; tự nguyện năm không tính chuyến...
19/08/2023 lúc 16:57
T
rong hai cuộc kháng chiến chống giặc cứu nước, lớp lớp cháu, con tiếp bước cha ông lên đường chống ngoại xâm và bảo vệ, xây dựng quê hương đất nước, trong đó có cả lứa tuổi 15. Tiêu biểu là Trương Văn Bảo bí danh Trường Sơn, một tấm gương anh dũng của đội Thiếu niên Tiền phong (TNTP) xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Gia đình Bảo nghèo, nhưng có truyền thống yêu nước, hai anh đã anh dũng hy sinh vì nước, anh thứ ba bị thương nặng, địch bắt giam ở Côn Đảo. Bảo thất học sớm, phải đi ở chăn trâu để góp phần giúp đỡ gia đình nuôi các em nhỏ. Mặc dù hoàn cảnh như thế, Bảo vẫn hồn nhiên vui tươi trong cuộc sống. Bảo đã cùng các bạn vận động, tổ chức xây dựng đội TNTP Xuân - Phiên - Hà, gồm 23 đội viên, do em làm đội trưởng. Đội TNTP có nhiệm vụ theo giỏi từng bước đi, nơi ăn, chốn ở của địch, nhằm bảo vệ cán bộ cách mạng, đi về hoạt động được an toàn và nắm thời cơ tốt là tiêu diệt chúng. Như thường lệ ở vùng Xuân - Phiên - Hà ban đêm địch đi trốn, sáng sớm thì tổ chức hành quân vào làng càn quét rồi nghỉ ngơi. Một hôm địch cố tạo ra sự bất ngờ cho ta, vào lúc 15 giờ chúng cho quân đột kích vào làng, hòng tiêu diệt và bắt sống cán bộ của ta. Lúc đó, Bảo đang chăn trâu ở cánh đồng bên kia sông, trong đàn trâu có một con trâu đực, bên này sông là tuyến đường địch đang hành quân áp sát vào làng, cũng có một con trâu đực. Hai con trâu này thường ngày phải cho ăn cỏ ở hai cánh đồng cách biệt, để tránh sự đụng độ, quấy phá lẫn nhau.
Trước tình hình như vậy, Bảo nhận định sẽ có tình huống xấu xảy ra cho cán bộ của ta, một ý nghĩ lóe lên trong đầu. Bảo lập tức giục con trâu đực vượt sông, cho hai con trâu xáp trận, nhằm cố tạo ra trò thích thú để địch dừng chân xem trâu chọi nhau. Lúc đó Bảo sẽ chạy về báo cho cơ sở của ta biết, kịp thời che giấu cán bộ cách mạng được an toàn. Hai con trâu chọi nhau quyết liệt; lừa lúc bọn địch nhốn nháo đứng xem, Bảo chạy như tên bắn vào làng, báo cho cơ sở biết, địch vây càn. Sau đó Bảo vờ lấy cây sào chạy về phía hai con trâu. Bảo vừa khóc vừa kêu cứu, nói: “Nhờ các anh ngăn hai con trâu cho em với, không thì ông chủ cho ăn đòn, chết em thôi!”, bọn địch nháo nhác đứng nhìn. Có một tên nghe được lời kêu cứu đó, liền cầm cây sào quờ mạnh, hai con trâu rời nhau ra, bọn địch tiếp tục dàn hàng ngang tiến quân vào làng. Thấy vậy mắt Bảo sáng lên, hí hửng cưỡi trâu qua sông trong tiếng sáo diều vi vút.
Thế rồi cuộc chiến cứ kéo dài, năm tháng nối tiếp đi qua, Bảo cùng với đội TNTP làm tốt mọi nhiệm vụ được cấp trên giao phó. Cuối năm 1967, Bảo nằng nặc xin cấp trên cho thoát ly làm cách mạng. Bảo tạm biệt gia đình và đội TNTP theo các chú, các anh lên đường làm nhiệm vụ mới. Bảo vốn hoạt bát nhanh nhẹn nên được cấp trên phân làm công tác giao liên, ngày đêm vượt trảng cát hàng chục cây số để chuyển công văn, thư mật lệnh hỏa tốc của huyện ủy Triệu Phong. Hơn một năm, Bảo hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cấp trên giao.
Cuối năm 1968, trên đường làm nhiệm vụ, mang thư mật cho huyện ủy Triệu Phong, Bảo sa vào ổ phục kích của địch. Bọn chúng như hổ gặp được mồi, tập trung nhiều mũi để hòng bắt sống em, Bảo ra sức chạy để thoát, địch phải xả súng bắn như mưa, nhưng vẫn không làm gì được Bảo. Dưới làn đạn của địch, em chạy vòng vèo để có đủ thời gian nhai hết thư mật vào miệng, nhằm bảo vệ bí mật cho cách mạng. Sau đó Bảo ngoan cường ném lựu đạn diệt một toán địch, cuối cùng em đã anh dũng hy sinh, nằm xuống bên bờ cát trắng dưới những hàng phi lao vi vút. Bình minh rực sáng, sóng biển vỗ rì rào, để ngợi ca một người con kiên cường bất khuất. Tên Bảo được ghi vào trang sử vàng của quê nhà...
19/08/2023 lúc 16:57
C
huyện trạng ở Huỳnh Công Tây được xem là một kho tàng văn học dân gian có một không hai của Việt Nam, như là di sản văn hoá phi vật thể có từ xa xưa. Còn trạng Vĩnh Hoàng nay thuộc xã Vĩnh Tú, huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị là địa danh mới có sau này.. Năm 1949, xã Vĩnh Hoàng được thành lập, trong đó có ba thôn là làng Huỳnh Công Đông, Huỳnh Công Tây, Huỳnh Công Nam nên chuyện trạng cả ba làng còn được gọi là chuyện trạng Vĩnh Hoàng. Nay xã Vĩnh Hoàng đã đổi thành xã Vĩnh Tú, vậy nên Vĩnh Hoàng chỉ còn là danh từ riêng chỉ chuyện trạng 3 làng Huỳnh Công mà thôi.
Tìm đến trạng Vĩnh Hoàng tức là phải tìm đến cội nguồn, nơi xuất xứ ra trạng Vĩnh Hoàng. Vào thời sơ khai cách đây trên 300 năm, các dòng họ các tỉnh phía Bắc như Nam Định, Thái Bình đến Thanh Hoá vào đây khai khẩn và lập nên làng Huỳnh Công. Trong đó Huỳnh Công Tây là nơi có nhiều điển tích làm căn cứ sản sinh ra chuyện trạng Vĩnh Hoàng.
Huỳnh Công Tây hồi đó có rất nhiều rừng rú, rú liền rú vào sát tận bìa làng, rất thích hợp cho các loài muông thú kéo nhau về đây trú ngụ và sinh sống. Cu, chim đủ loài, thú rừng như hươu, nai, trâu ri, bò tót, cọp beo vv..., nhiều vô kể. Cọp thường ăn lẫn lộn với bò để bắt mồi, cho nên có chuyện bắt nhầm cọp để cày. Cọp thường vào làng để bắt người. Nay còn có lòi rú gọi là “lòi mụ Sài”. Cọp đã bắt bà ấy vào lòi này ăn thịt, cho nên người ta đặt tên cho lòi rú đó là “lòi mụ Sài”.
Hoặc rừng rú cò những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Cu chim thường ăn và thải hạt ớt vào trên ngọn cây, cho nên có những cây ớt tự tạo, gốc có thể cưa được mấy cấp săng ấm và còn làm được mấy xác nhà Rường... Huỳnh Công Tây nơi đây là vùng đất có chín phần là đất cát, còn một phần là đất đỏ bazan. Thiên nhiên không được ưu đãi lắm. Hai mùa nắng gió khắc khổ. Mùa hè ngọn gió Lào kéo về nắng rát đến nổ tre. Mùa đông ngọn gió Đông Bắc kéo theo mưa phùn lạnh tê tái. Ruộng lúa rất hiếm hoi. Họ sống chỉ nhờ vào cây khoai, cây sắn, còn gạo thì rất khan hiếm, quý hơn vàng. Họ cho hạt gạo là “hòn ngọc nhà trời”.
Thiếu ruộng không đủ gạo ăn, họ tìm cách bù đắp bằng trồng dưa đỏ trên cát để tạo nên hàng hoá trao đổi. Họ làm dưa đỏ đã trở thành làng nghề. Dưa đỏ đã trở nên món hàng đặc biệt. Lái buôn đã về đây mua chở vào Nam, ra Bắc để tiêu thụ. Có giống dưa đặc biệt là ngon, đã được đưa vào cống tiến trong cung vua, để vua ngự lãm. Giống dưa đó được gọi là dưa ngự. Quạ ở đây cũng nhiều vô kể. Dưa đỏ là món ăn mà quạ thích nhất, cho nên có chuyện một đàn quạ từ trong quả dưa chui ra, bắt bọp đến mỏi tay và chỉ có nơi đây mới có. Nhờ có nghề làm dưa đỏ để trao đổi lấy lúa gạo, họ mới thêm bát cơm để bù đắp. Từ trên mảnh đất mà tổ tiên đã tạo dựng nên, họ phải vật lộn, bươn chải, đào bới trong đất, để làm ra cây khoai, cây sắn nuôi sống họ trong những ngày ba, tháng tám, những lúc giáp hạt, những năm mất mùa, khoai sắn đã nuôi sống họ không bị chết đói, cho nên họ vẫn bám giữ mảnh đất này “một tấc không đi, một ly không rời”.
Cũng giống như những cây trâm bầu quê họ, khi rễ đã cắm sâu vào lòng đất thì nắng vẫn không khô, hạn vẫn không héo, bão táp mưa sa vẫn đứng vững giữa trời, làm thành vành đai chắn bảo vệ con người, giữ cho làng xóm được yên vui.
Vĩnh Hoàng xưa nghèo khổ, phải vật lộn với thiên tai, giặc giã để mưu sinh. Trên cuộc hành trình gian khổ đó, người dân có một vũ khí rất lợi hại để tự động viên mình, đó là chuyện trạng. Và trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, người ta đã sinh ra cả ngàn chuyện trạng, thành kho tàng đặc sắc. Đây là kho chuyện cười trào tiếu dân gian, cũng giống như chuyện cười của các làng trạng Bắc Bộ hay chuyện kể bác Ba Phi ở Nam Bộ Truyện Trạng Vĩnh Hoàng đã nêu bật được bản sắc độc đáo của con người Việt Nam ở Vĩnh Hoàng. Tuy là chuyện Trạng nhưng vẫn chứa đựng những giá trị hiện thực. Đây không phải là những truyện bông lơn, nói láo một cách hời hợt dễ dãi mà xây dựng từ những thành quả lao động và chiến đấu. Nghệ thuật kể truyện Trạng Vĩnh Hoàng tuy cũng dùng biện pháp khoa trương, phóng đại, nhưng cái lõi đều dựa trên cơ sở hiện thực như chuyện "Trâu đen trâu bạc" là để phóng đại dưa hấu ở Vĩnh Hoàng, chuyện "Mắc cọp mà cày" là để phóng đại việc người Vĩnh Hoàng ngày trước đi cày rất sớm và vùng này cũng nổi tiếng có nhiều cọp như ở Thuỷ Ba. Về phương thức phóng đại, người Vĩnh Hoàng không dùng lối trực tiếp mà diễn tả bằng lối gián tiếp. Để chỉ quả dưa khổng lồ, họ không so sánh quả dưa đó với vật thể nào mà diễn đạt một cách thông minh hơn: dưa mà đạn bắn vào mắc kẹt không ra được, cả đàn quạ chui vào ruột khoét dưa ăn, rồi mang cả dưa lẫn quạ bay lên giữa không trung…
Làng Trạng xưa nay đã được sự mến mộ của xa gần. Từ trong gian khó đã biết đấu tranh để sinh tồn. Từ chất trạng đã tiếp thêm cho họ nguồn sinh lực, trong nắng gió khắc nghiệt của môi trường sống họ đã tạo ra và nếm được hương vị ngọt ngào....
19/08/2023 lúc 16:57
P
hó bảng Trần Viết Thọ sinh ngày rằm tháng 9 năm Bính Thân, tức ngày 24 tháng 10 năm 1806, dưới thời vua Gia Long (1802 - 1820) tại làng Thâm Triều, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị nay là xã Triệu Tài, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị trong một gia đình nho học. Ông có huý làThanh Phúc, tự là Chu Toàn, hiệu là Điềm Tịnh. Ông cũng có tên tu hành là Cư sĩ Đại Sư.
Thuở còn nhỏ ông được học chữ Hán tại làng mình và đã sớm bộc lộ tư chất thông minh, sáng dạ. Lớn lên, ông rời làng quê lên tỉnh lỵ Quảng Trị để tiếp tục học tập. Ít lâu sau, ông được gia đình cho vào kinh đô Huế để theo đuổi sự nghiệp bút nghiên. Ở đây, ông trở thành một môn sinh nổi bật hơn hẳn các bạn đồng học, nên đến năm Giáp Tý, năm Tự Đức thứ 17, 1864, Triều đình đã cấp học bổng cho ông, nhờ vậy việc dùi mài kinh sử của ông được thuận lợi hơn, tạo điều kiện cho ông thể hiện trí tuệ và tài năng của mình. Nhờ vậy, ông đã dễ dàng đổ Cử nhân tại trường Thừa Thiên, khoa thi Hương năm Tự Đức thứ 20, tức năm Đinh Mão, 1867 lúc mới 31 tuổi.
Tiếp sau đó ít năm, ông dự kỳ thi Hội năm Tự Đức thứ 24, khoa thi Tân Mùi, 1871 và đỗ Phó bảng ở tuổi 35.
Năm Tự Đức thứ 26, 1873, Triều đình bổ nhiệm ông chức Giáo thọ phủ Quảng Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Đến năm sau, năm Tự Đức thứ 27, 1874, ông được thăng chức Tri huyện huyện Hưng Nhân, tỉnh Thanh Hoá. Gần ba năm sau, năm Tự Đức thứ 30, 1877, ông được Triều đình cử làm Giáo thọ huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, rồi đến năm Tự Đức thứ 35, 1882, ông lại tiếp tục được thăng chức Huấn đạo phủ Nam sách, tỉnh Hải Dương.
Qua nhiều năm làm việc ở các phủ huyện nhiều tỉnh, vốn là một nhà khoa bảng có nhân phẩm và sống thanh bạch, Phó bảng Trần Viết thọ đã tận mắt nhìn thấy thực trạng đau lòng về nạn mua quan bán tước, về tệ nạn quan lại ức hiếp dân đòi hối lộ mà ông luôn luôn giữ mình trong sạch, với một lòng thương dân.
Chính vì vậy mà một số trọng thần của Triều đình như Biện lý Bô lại Nguyễn Hữu Độ, Tổng đốc Vũ Trọng Bình… đã nhìn thấy phẩm chất liêm khiết và cương trực, tài năng và sự tận tuỵ của Phó bảng Trần Viết Thọ nên đã tiến cử lên vua Tự Đức cất nhắc, giao nhiệm vụ trọng yếu hơn. Năm Tự Đức thứ 36, 1883, Triều đình đã phong cho ông hàm Chánh lục phẩm với chức Hàm lâm viện Trước tác và gọi về Kinh đô giao nhiệm vụ Chủ sự Bô Lại kiêm Cơ mật Hành tẩu.
Xa rời các phủ huyện mà ở đó nhiều điều mắt thấy tai nghe đã từng làm cho ông trăn trở, đau lòng, khi trở về kinh đô, ông toàn tâm toàn ý phụng sự vương triều, cùng lo toan, chia sẻ những công việc trọng yếu của đất nước, như nghiên cứu đề xuất hoặc trực tiếp soạn thảo các sắc dụ vua ban có liên quan đến quốc tế, binh cơ trong quan hệ với ngoại bang hoặc các chỉ, cáo vua ban liên quan đến việc điều hành việc nước, bổ dụng, sắp xếp, thăng thưởng quan lại và việc tham gia giảng tập cho các hoàng tử, công chúa trong cung…
Nhưng điều mà ông tâm đắc chẳng kéo dài được bao lâu, lại trở thành nỗi phiền muộn khôn nguôi trong lòng ông khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta.
Ngày 19.7.1883, vua Tự Đức băng hà, nội bộ Triều đình lục đục, chia bè kéo cánh trong việc suy tôn vua kế nghiệp. Trong bối cảnh triều đình rối loạn, thực dân Pháp đã đưa sáu chiến hạm đến cửa biển Thuận An dưới sự chỉ huy của các tướng Courbet và Harmand ngày 14.8.1883. Và đến chiều 16.8.1883, hạm đội Pháp bắn phá dữ dội các đồn duyên hải của ta và ngày 20.8.1883, chúng chiếm cửa biển Thuận An.
Triều đình ngày 25 tháng 8 năm 1883 buộc phải ký với Pháp Hoà ước năm Quý Mùi hayHoà ước Harmand, một hiệp ước hoà bình, nhưng thực chất là một hiệp ước đầu hàng, chấp nhận trao hết quyền quan hệ đối ngoại cho Pháp, mất lãnh thổ, mất chủ quyền, chịu sự bảo hộ của Pháp.
Ngày 6 tháng 6 năm 1884, thực dân Pháp lấn thêm một bước nữa, buộc triều đình ký Hoà ước năm Giáp Thân hay Hoà ước Patenôtre làm rõ hơn quy chế bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam, nhất là chấm dứt quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa và sau Hoà ước này, Pháp buộc triều đình huỷ ấn Nhà Thanh phong vương cho vua Việt Nam.
Buồn phiền về nhân tình thế thái, Phó bảng Trần Viết Thọ xin cáo bệnh về quê năm Kiến Phúc thứ hai, 1884.
Vào thời kỳ đầu của năm Hàm Nghi thứ nhất, 1884, ở tỉnh thành Quảng Trị đã xảy ra một sự biến: quân phiến loạn mượn tiếng xướng nghĩa nổi lên cướp tỉnh thành, quân bảo vệ thành không đánh dẹp được, nên tỉnh đường rơi vào tay quân phiến loạn. Được tin, Phó bảng Trần Viết Thọ từ quê ra tỉnh lỵ ngay, đến gặp người cầm đầu phiến quân lấy lời hơn lẽ thiệt phân giải đúng sai trong cảnh nước nhà gặp nạn xâm lăng. Người cầm đầu phiến quân sau khi nghe xong cho là phải, liền ra lệnh rút lui, giải thể phiến quân, nhờ vậy quan quân của tỉnh nhà của ông nhân đó thu lại tỉnh thành...
19/08/2023 lúc 16:57
C
hiều ấy, một chiều cuối mưa của năm 1950, tổ làm công tác dân vận của Bộ đội Bình - Trị - Thiên chúng tôi đi về một bản của người Cơ Tu để gặp người già bàn việc thành lập đội du kích. Bản ấy nằm về tả ngạn sông Ba Lòng, cách thị trấn Hướng Hóa chừng 60 cây số về phía Bắc. Vừa vòng qua một mỏm núi nhô ra một cái vực thì trăng lên. Ba đứa vừa đi vừa ngắm vực thì bất thần nhìn thấy một con hổ đang uống trăng dưới vực. Sợ quá, chân tay bủn rủn, chúng tôi ngồi đánh phịch xuống nền rừng. Chỗ hổ ngồi chỉ cách chỗ chúng tôi chừng mươi mét. Nếu là mùa khô thì chắc chắn tiếng động của những bước chân chúng tôi vừa đi sẽ dội vào tai hổ. Bởi lẽ, về mùa khô, dưới nền rừng là dày đặc những lá khô cong cớn, giòn và khô khốc, không một chuyển động nào dưới nền rừng mà không để lại một âm thanh. Hồi tôi học Đệ tứ ở Quy Nhơn, tôi được nghe những người đi rừng kể rằng, hổ chỉ vồ những người đi giữa. Mà lúc này, tay Xuân ngồi trước, tôi ngồi giữa rồi mới đến tay Cẩm. Nếu cứ ngồi thế này thì chắc chắn con hổ kia sẽ quắp tôi trước. Mà tiếp tục đi hoặc bò thì tiếng động sẽ dội vào tai hổ và như thế có khác chi “lạy ông, tôi ở bụi này!”. Thôi thì đằng nào cũng chết. Từ ngày đi theo tiếng gọi của “Nước nhà nguy biến” với câu hát: “Rađi không về, âm vang lời thề”tôi đã không sợ chết thì bây giờ có chết cũng đã sao đâu. Với lại, đời người dễ đã mấy ai được ngắm “ông ba mươi” giữa rừng già, mà chỉ được ngắm sự ngán ngẩm của ông ta trong cũi sắt ở các vườn bách thú. Nghĩ vậy, tôi trấn tĩnh lại, ngắm sự iêng hùng của “chúa sơn lâm”. Tôi nhìn rõ mấy cái râu của Chúa đang đong đưa dưới làn nước trong vắt và lăn tăn sóng. Mắt hắn đắm đuối uống vầng trăng rung rinh dưới vực. Thi thoảng lại ngáp một cái phô ra bộ răng nhọn hoắt và cái lưỡi thè lè ra liếm mép. Hai chân trước đặt lên một tảng đá cao cao, đầu nhô về phía vực, mình hơi trũng xuống phía sau, cái đuôi khi vắt sang trái khi vắt sang phải một cách thờ ơ như sự thờ ơ trong đầu hắn. Hẳn lúc này trong bụng hắn đã quá no nê, hắn đang cần một khoái lạc khác; khoái lạc của “chúa sơn lâm” hoặc về bạn tình của hắn. Nghĩ vậy nên tôi càng trấn tĩnh hơn. Giá lúc này có được cái máy ảnh thì chắc chắn tôi sẽ chụp được tâm trạng của “ông ba mươi” giữa rừng già Quảng Trị.
Tôi ngắm “tâm trạng” của hắn dễ đến mươi phút thì bỗng dưng có một tiếng động đánh soạt ở phía sau hắn. Hắn giật mình, ngơ ngác rồi quay lại, lao vút vào màn đêm. Tôi vừa tiếc vừa thở phào nhẹ nhõm. Còn tay Xuân và tay Cẩm thì chết giấc lúc nào không hay. Một cái mùi gì khai khai thoang thoảng qua mũi tôi. Tôi đinh ninh đó là nước đái hổ. Vì hồi còn ngồi trên ghế nhà trường, học môn động vật, thầy giáo tôi bảo, loài hổ là chúa của sơn lâm; tất cả mọi con vật ở rừng núi đều phải sợ nó, nhưng nó cũng là chúa của đãng trí. Đãng trí tới mức, nó mới găm một sự việc nào đó vào trong đầu mà sau đó, chỉ cần quệt vào lá rừng là quên hết nên đi tới đâu nó phải đái tới đó để nhớ đường về. Nhưng trong trường hợp này đâu có phải là nước đái hổ, vì nó có lao qua chỗ chúng tôi ngồi đâu mà là do sợ quá, tay Xuân và tay Cẩm đã đái ra quần! Nếu cứ để thế này vào bản thì các noọng sẽ cười chết. Tôi giục hai đứa cởi quần ra, hai cái mông trắng hếu. Tôi phải đá đít cho mỗi đứa vài cái, chúng mới dám lò dò xuống vực; vì thần hồn nát thần tính; vẫn còn sợ cái bóng hổ còn chờn vờn đâu đây…
Hai năm sau, năm 1952, cả ba chúng tôi đều được bổ sung cho Mặt trận Tây Nguyên. Trên đường đến bản của người M’Nông nằm về hữu ngạn sông Krông Ana mà các dân tộc ở đây kêu là sông Ea Krông, cách hồ Ea Snô huyền thoại chỉ chừng 20 cây số về phía tây- bắc. Chưa kịp tới bản thì trời sẩm tối. Đêm ấy cũng là một đêm trăng đầu mùa khô như đêm nào ở Quảng Trị, ba anh em nhóm bếp nấu cơm rồi mắc võng theo thế chân vạc nằm ngắm trăng suông. Theo các già làng, ở vùng này là xứ sở của “chúa sơn lâm”. “Chúa” vồ người giữa ban ngày ban mặt, nhưng “chúa” sợ nhất các vật nhọn đầu. Vì vậy, trước khi nằm toòng teng trên võng ngắm trăng, chúng tôi đã phạt nhọn hàng chục cây rừng cắm xung quay võng. Tâm trạng sợ hổ vẫn cứ lan man trong đầu óc chúng tôi. Nhưng do đã được “chiêm ngưỡng” hình hài “ông ba mươi” ở Quảng Trị và suốt ngày cuốc bộ, chúng tôi đi vào mộng mị lúc nào không hay. Giữa mùa khô, cánh rừng gần biên giới Căm-pu-chia này đêm đến cũng lành lạnh, tôi ngồi dậy lục trong bồng lấy tấm đắp để đắp thì thấy ngay con hổ đang ngồi chồm chỗm gầm gừ ở giữa ba chúng tôi, cách mỗi đứa chỉ chừng mươi mét. Giá không có những cọc vót nhọn kia thì chắc chắn “ổng” đã quắp một trong ba đứa. Tôi giặng lên mấy tiếng, vừa để dọa lại “ổng” vừa để đánh thức thằng Xuân và Cẩm. Chắc hai tay này không té ra quần như lần trước nên chúng hắn cứ hú hòa dộ lại “ổng” mỗi khi “ổng” quay về mỗi đứa gầm ghè. Tuy chúng tôi không “leo lên lưng cọp” như người đời vẫn nói, nhưng không thể chạy được!. Trong ba đứa chúng tôi, tôi là tổ trưởng nên lời nói của tôi lúc này là mệnh lệnh của quân đội. Tôi gọi như hét lên:..
Hiện tại
26°
Mưa
14/06
25° - 27°
Mưa
15/06
24° - 26°
Mưa
16/06
23° - 26°
Mưa