28/01/2025 lúc 23:15
19/08/2023 lúc 16:57
C
ách đây gần 1000 năm, Văn Miếu Quốc Tử Giám – Một mô hình trường Đại học – đã được ra đời rất sớm tại Thăng Long. Vào thời kỳ rực rỡ nhất, Minh quân Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã cho dựng bia lưu danh các Tiến sĩ xuất sắc. Hệ thống Bia Tiến sĩ này đã được UNESCO xếp loại là Di tích vật thể ký ức văn hóa thế giới. Đi từ cổng vào, bia thứ bảy, hàng bên phải ghi danh một con người ưu tú Quảng Trị: Bùi Dục Tài - Năm 1555, học giả Dương Văn An (quê ở Quảng Bình, đỗ tiến sĩ 1547) đã viết cuốn “Ô Châu Cận Lục” loại sách địa chí đầu tiên, về một vùng đất phương Nam, đã cho ta biết những thông tin cơ bản về danh nhân nổi tiếng người Quảng Trị này.
Chúng ta biết rằng: Phải sau những võ công oanh liệt của Lý Thường Kiệt (1075) và cuộc tình đầy chất chính trị của công chúa Huyền Trân thì từ sau 1336, toàn bộ Quảng Trị mới được trở về trong bản đồ của Tổ quốc Đại Việt thân yêu. Có thể hình dung lúc đó: Đây là một vùng quê nghèo xơ xác, hệ thống giáo dục chắc chắn là rất nhỏ bé của buổi sơ khai. Dương Văn An miêu tả: “… đất đai hẻo lánh, phong tục chất phác, nhân vật thưa thớt, không thể so sánh với châu Hoan, châu Ái” (Trang 15). Nhưng từ trên mảnh đất nghèo ấy, Bùi Dục Tài đã “Sớm nêu sỹ vọng, đột phá khai khoa” (T.138). Với thực tài của mình: “Lầu thông văn học, nức tiếng ngợi ca, Năm Cảnh thống 5. (1502) đỗ tiến sĩ khóa Nhâm Tuất” khi “Người cùng thi đã rất phục tài mẫn tiệp của ông” (T.111). Tác giả viết thêm: “Bùi Dục Tài đỗ Tiến sĩ khi kẻ đua tranh cũng không biết đến mấy trăm người” (T.143). Từ sau thành công vang dội ở điện Nam Trai đó, người con trai ưu tú Quảng Trị này đã được bổ làm quan hiệu úy ở Viện Hàn lâm rồi được thăng chức Tham chính đạo Thanh Hóa. Đến “Năm Hồng Thuận Kỷ Tỵ (1509) do có công ứng nghĩa lại có tài cán được Thăng Tả Thị Lang Bộ Lại, đã lo việc thuyên chuyển, bổ nhiệm các quan chức một cách công bằng và đứng đắn, được mọi người ca ngợi” (T.111). Đến năm Quang Thiệu (1516) ông được thăng tiếp chức Tham Tướng. Đến 1522, trên đường đi kinh lý, bị kẻ gian sát hại.
Khái quát về ông, học giả Dương Văn An đánh giá: “Bùi Dục Tài về chính trị và văn chương xứng đáng là bậc hiền tài trong thiên hạ chứ đâu phải là bậc hiền tài riêng của xứ châu Ô” (T.138). Hơn 200 năm sau, Bác học Lê Quý Đôn từng khen ông “Văn mạch một phương dằng dặc không dứt”. Từ điển văn hóa Việt Nam ghi nhận: “Ông nổi tiếng là một trí thức xuất sắc” (T.34). Từ thành công của ông, chí ít cũng cho ta 3 kết luận có ý nghĩa. Một là: ý chí khổ học, khổ luyện để phát triển. Bởi vì với môi trường đầy khó khăn lúc đó của châu Ô, vượt qua chướng ngại, đọ sức với bao nhân tài khác của các vùng thuận lợi mà thành công thì đó trước hết là bởi một ý chí mãnh liệt và một nghị lực phi thường. Hai là: sau quá trình khổ học, đỗ đạt cao, ông đã tận tâm lo việc nước. Điều đó cho thấy: Ông học không phải để “Vinh thân, phì gia” mà là để giúp đời, giúp nước. Hình ảnh của ông đọng lại trong lòng người không chỉ là một trí tuệ mẫn tiệp mà còn là một vị quan thanh liêm hết lòng vì việc công và được mọi người nể trọng. Ba là: Thành công của ông chủ yếu là từ sự nỗ lực của chính mình nhưng cũng gắn với những khuyến học của cộng đồng. Bởi vì, chính quê ông, sau khi ông mất ít lâu đã có bản hương ước với một nguyên tắc nổi tiêng: “Ai ai cũng phải học, học chữ, học nghề, học lễ nghĩa.” Rõ ràng, khi ông đi học, đi thi đã được gia đình, họ mạc, làng xóm giúp đỡ. Khi ông đỗ đạt được cộng đồng đón rước tưng bừng. Khi ông mất, cộng đồng tổ chức thờ cúng thành kính, trang nghiêm.
Thành công của ông thật to lớn và nó đã có một hiệu quả kép. Đó là vinh hiển dành cho ông và đó cũng là một ngọn cờ kêu gọi, cổ vũ, tập hợp để hậu thế noi theo: Khổ học, khổ luyện để trưởng thành...
19/08/2023 lúc 16:57
Đ
ại tá Trần Văn Thà, nguyên Đảo trưởng đảo Cồn Cỏ, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn bộ binh 47, Trung đoàn 270 từng lập nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nay tuổi đã cao, sức đã yếu nhưng ông vẫn hàng ngày giúp chữa bệnh cho người nghèo bằng các bài thuốc đông y. Và không chỉ chữa bệnh, ông còn giúp đỡ tiền bạc, vật chất cho những người nghèo khổ.
"Người anh hùng của chúng tôi"
Những năm tháng tôi còn ở đảo Cồn Cỏ, câu chuyện về người đảo trưởng Trần Văn Thà thời chiến tranh chống Mỹ can đảm, mưu trí chỉ huy bộ đội đánh trả máy bay, tàu chiến Mỹ, đã trở thành huyền thoại đối với cánh lính đảo. Rồi cuộc chiến đấu của Tiểu đoàn 47, Trung đoàn 270 ở Cửa Việt diễn ra vào năm 1968 mà cũng chính Trần Văn Thà là Tiểu đoàn trưởng chỉ huy đã bẻ gãy nhiều mũi tiến công của Thủy quân lục chiến Mỹ; trận "Bạch đằng giang" quân ta đóng cọc tre chặn đánh tàu địch trên sông Hiếu do ông chỉ huy đã đi vào lịch sử… Sự thôi thúc muốn được gặp gỡ, hỏi chuyện người cựu chiến binh già đã dẫn tôi đến số 62 Phù Đổng, thành phố Nha Trang vào một buổi chiều mùa đông se se lạnh.
Cuộc đời chiến đấu của Đại tá Trần Văn Thà của ông mãi còn tươi rói. Và để kể lại, có lẽ phải cần đến một cuốn sách, tôi chỉ xin được liệt kê theo kiểu "trích ngang lý lịch": Tháng 2-1945, khi mới 16 tuổi Trần Văn Thà tham gia Việt Minh tại huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, năm 1946 gia nhập quân đội, tham gia hàng trăm trận đánh. Năm 1954 tập kết ra Bắc, từ tháng 5-1965 đến tháng 12-1967 là Đảo trưởng đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị); từ tháng 1-1968 đến năm 1976 giữ các chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 47 đến Trung đoàn trưởng Trung đoàn 270, Phó chỉ huy trưởng Đặc khu Vĩnh Linh, tham gia chiến đấu trên khắp địa bàn tỉnh Quảng Trị. Những trận đánh do ông chỉ huy, đặc biệt là 108 ngày Tiểu đoàn 47 bám trụ tại Cửa Việt đã trở thành một phần "tư liệu sống" cho nhà viết kịch quân đội Đào Hồng Cẩm xây dựng nên tác phẩm nổi tiếng "Đại đội trưởng của tôi". Đó là một trận đánh mà đến bây giờ, sau 43 năm vẫn còn là điều day dứt trong tâm trí ông…
Ngày 19-1-1968, Tiểu đoàn 47 hành quân từ Vĩnh Linh vào tổ chức đánh địch tại bờ bắc sông Hiếu, huyện Gio Linh, Quảng Trị. Sau ba ngày chiến đấu, đơn vị bắn cháy sáu tàu vận tải, năm xe tăng và tiêu diệt hàng trăm tên địch, nhưng ta cũng thương vong lớn, điện đài hư hỏng, mất liên lạc với cấp trên. Hai phóng viên Báo Quân đội nhân dân là Nguyễn Ngọc Nhu và Lê Đình Dư bám theo đơn vị đã hi sinh anh dũng trên chiến hào… Đại tá Trần Văn Thà kể: "Khi tôi đang mai táng nhà báo Lê Đình Dư thì được gọi về họp Đảng ủy Tiểu đoàn tại làng Lâm Xuân Đông. Phiên họp căng thẳng diễn ra suốt 5 tiếng đồng hồ, đến 11 giờ đêm. Đồng chí Bí thư đặt vấn đề bàn xem nên rút quân hay tiếp tục ở lại chiến đấu? Tôi phát biểu cần bàn xem ngày mai tổ chức đơn vị chiến đấu như thế nào, không được rút quân. Đồng chí phái viên quân sự đi cùng đơn vị cũng cho rằng nếu trụ lại thì đơn vị sẽ bị tiêu diệt, không còn phiên hiệu, nên cho rút lui. Vì ý kiến của tôi là thiểu số nên Đảng ủy Tiểu đoàn biểu quyết nhất trí rút quân…"
Đêm tối, mưa se lạnh. Đoàn quân bám theo những bờ ruộng, triền cát bị cày nát bởi bom đạn, lầm lũi ngược ra bắc dưới ánh pháo sáng địch chập chờn hắt lên từ phía Cửa Việt, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Đông Hà. Tiểu đoàn trưởng Trần Văn Thà cảm thấy không thể nào yên lòng được… Anh vượt lên trước hàng quân, trèo lên trên một cồn cát cao, nói to:
- Anh em Tiểu đoàn 47 dừng lại! Tôi là Trần Văn Thà, Tiểu đoàn trưởng, đảng viên. Nhiệm vụ của chúng ta là "bóp cổ" Cửa Việt chưa hoàn thành, tại sao lại rút lui? Nhục nhã quá! Tôi xin lỗi anh em là đã ra lệnh rút lui. Còn bây giờ, ai dám hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ thì ở lại Cửa Việt cùng tôi. Tôi không ra lệnh nữa. Tôi xin hứa là sẽ tổ chức, chỉ huy anh em ngày mai chiến đấu thắng lợi!..
19/08/2023 lúc 16:57
Ở
một miền đất nghèo, chăm bẵm cho việc học chữ đã khó, thế mà vẫn có những võ đường mở ra với mục đích tôi luyện sức khỏe cho thanh thiếu đồng niên. Phải chăng đấy là sự kế tục văn hóa ngàn đời của cha ông, võ bên cạnh văn; hay là chí nguyện hun đúc nên những con người văn võ song toàn. Mùa xuân này tôi về thăm lại sư phụ tại võ đường Long Phi ở làng Quảng Lượng (huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị). Bao lớp thế hệ võ sinh ngày ngày luyện tập khiến nền đất cứng chặt. Tôi nghĩ, võ học sẽ còn bền chặt mãi mãi như thế.
Tết nào tôi cũng về làng Quảng Lượng từ sáng mùng một. Trước hết, bởi đó là quê ngoại của tôi, và sau nữa là nơi có võ đường mình từng theo học. Quê ngoại nằm gọn giữa cánh đồng lúa, nghề nghiệp chính là canh nông. Rồi mùa đàn ông đi làm thợ xây hoặc thợ đụng (đụng đâu làm đó), đàn bà ở nhà trồng rau cải hoa màu. Cuộc sống giản dị, bình thường, lo bữa ăn còn khó. Thế nhưng sự học không hề còm cõi, năm vừa rồi có mười em đi thi đại học thì đỗ hết chín. Tôi luôn nghĩ quê ngoại là miền đất nghèo hiếu học, cả chữ nghĩa và võ nghệ, bởi nơi đây có một võ đường nhỏ nhưng quy tụ rất đông môn sinh trong vùng đến luyện tập.
Căn nhà của thầy tôi nằm khuất sau một rặng tre, hai bên lối vào uôm kín bởi những tán cây rậm. Đi qua lối hẹp ấy sẽ tới ngay sân nhà, chính là bãi tập luyện của võ sinh. Dường như cái vị thế kín đáo ấy cũng là một sự sắp đặt đầy ẩn ý, xưa nay võ học vốn khước từ sự khoe khoang phô trương. Người "cầm chịch" võ đường là huấn luyện viên Võ Văn Hùng, một người con của làng Quảng Lượng. Thời trẻ thầy vào nam túc nghiệp đồng thời theo học môn phái Long Phi, đầu thập niên chín mươi thầy lại về quê, hành trang mang theo là những kiến thức, bộ pháp, và chuẩn y hồng đai tứ đẳng (huấn luyện viên cao cấp theo hệ màu đai cũ).
Trên chuyến xe hồi hương, người huấn luyện viên trẻ ôm theo hành lý và cả ôm ấp ý định sẽ khai sinh võ đường tại quê nhà. Đến khi chạm chân lên đất làng thì ngại ngần vì lúc bấy giờ thanh niên ở nông thôn nhàn rỗi nhiều, buổi tối thường túm tụm kéo nhau đi phá phách gây gổ. Biết đâu mở lớp dạy võ lại kích thích thêm sự hiếu động của thanh niên? Chợt nhớ câu tâm niệm của môn phái, rằng luyện võ là luyện tâm, dùng võ lực để dẹp bạo lực, lấy sức mạnh nung khởi tình thương. Thế là thầy Hùng quyết định mở lớp.
Môn phái Thiếu Lâm Long Phi có mặt ở Quảng Trị kể từ đấy.
Long Phi hiểu đơn giản là chú rồng bay, một cái tên sang trọng, thanh thoát. Rồng là linh vật gần gũi trong văn hóa phương Đông nhưng cũng nhuốm màu huyền thoại, hư thực như từng bộ pháp của võ phái, sắc không biến hóa thoáng chốc. Võ Thiếu Lâm nói chung và phái Long Phi nói riêng đều lấy động tác làm nội pháp, lấy sức khỏe làm chí hướng và tôn chỉ là giúp đời. Bởi thế nên nó gần gũi với cuộc sống của con người, như thể võ học là bộ môn rèn luyện sức khỏe, kỹ thuật và điêu luyện hơn thể dục một ít chứ không phải là thần quyền pháp hóa.
Thế hệ môn đệ đầu tiên khi mở võ đường hầu hết là nam thanh niên. Thầy Hùng lúc ấy chưa đến độ "tam thập nhi lập" nhưng sự nghiệp võ thuật của thầy đã khá dày dặn với những chiếc huy chương tranh giải mang từ Sông Bé về. Dẫu vẫn biết mọi chước phẩm chẳng ý nghĩa gì đối với người hiếu học, song, dù sao đấy cũng là vật làm tin cho một môi trường giáo dục. Cũng chính cái sự trẻ của thầy Hùng mà nhiều môn đệ buổi ấy tuổi cũng xấp xỉ tuổi với thầy. Chẳng sao, mỗi người bạn cũng là một vị thầy. Hơn nữa, học võ không phải là giáo dục mô phạm mà thiên về sự kèm cặp hơn, thoải mái và gần gũi. Những môn sinh đầu tiên được đào luyện với tư cách vừa là học trò, vừa để tạo ra một đội ngũ huấn luyện viên làm nền tảng để phát triển võ đường.
Bất cứ lúc nào có trò vào học thầy Hùng cũng đều nhận chứ không nhất thiết phải chờ khai khoá. Thầy chỉ định môn sinh cũ truyền thụ môn sinh mới, huynh đệ kèm cặp nhau. Nhờ việc truyền thụ ấy mà học trò dễ trưởng thành hơn, nhớ kỹ những bộ pháp...
19/08/2023 lúc 16:57
Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, trên hướng tiến công chiến lược Trị - Thiên, từ ngày 30 - 3 đến ngày 1 - 5 - 1972, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và tiếp tục tiến công nhằm giải phóng tỉnh Thừa Thiên. Trước nguy cơ thất bại nặng nề của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Nhà trắng đã quyết định “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam,
19/08/2023 lúc 16:57
Thành Quảng Trị được khởi dựng vào những năm đầu của vương triều Nguyễn, quá trình xây dựng thành Quảng Trị từ khi khởi công dưới thời Gia Long đến khi hoàn thiện dưới thời Minh Mạng kéo dài gần 28 năm (1809 - 1837) với 3 giai đoạn. Với thời gian tồn tại của mình cho đến hiện nay, thành Quảng Trị có 27 năm được đắp tạm thời bằng đất, 135 năm được tạo dựng kiên cố bằng gạch (từ năm 1837 đến trước khi bị tàn phá vào năm 1972) và còn lại là quãng thời gian có cả sự hoang phế lẫn công việc phục hồi, tái thiết, tôn tạo.
19/08/2023 lúc 16:57
1-Quyết định một chuyến đi
Tôi cùng ông Đào Xuân Thái, 84 tuổi, nguyên là Chính trị viên tiểu đoàn 1 (Phai Khắt) thuộc trung đoàn 246, chiến đấu ở Mặt trận Đường 9 Quảng Trị những năm 1967-1970, nhận lời với gia đình Liệt sĩ đại đội trưởng Nguyễn Công Định trở lại chiến trường xưa để tìm hài cốt của anh sau hơn 43 năm nằm lại ở Đồi Con Vịt, chân cao điểm 425, bắc Đường 9. Chúng tôi nhận đi tìm Liệt sĩ Nguyễn Công Định bởi lẽ, tình đồng đội thôi thúc và thể theo nguyện vọng gia đình tha thiết tìm lại người thân, khi biết ông Đào Xuân Thái là người chỉ huy trực tiếp chôn cất Liệt sĩ Nguyễn Công Định. Còn tôi thời ấy là trợ lý quân lực được phân công nhiệm vụ trực tiếp lo phần bảo đảm chính sách, đóng gói di vật, viết giấy báo tử gửi về quê cho từng Liệt sĩ. Tôi hỏi gia đình vì sao để 43 năm mới đi tìm anh Định? Câu trả lời của người anh trai là do trước đây nghèo khó không có tiền! Bây giờ toàn thể họ hàng gom góp lại mới có điều kiện đi!
Trước khi lên đường, chúng tôi nói với gia đình rằng chuyến đi là một thử thách lớn, không chắc chắn một điều gì, bởi thời gian quá lâu, trí nhớ có hạn và những thay đổi không lường hết của địa bàn chiến đấu xưa. Ông Đào Xuân Thái bằng trí nhớ đã vẽ lại sơ đồ nơi chôn cất Liệt sĩ Nguyễn Công Định. Chúng tôi làm một số giấy tờ tùy thân đảm bảo cho một chuyến đi, có xác nhận của chính quyền phường nơi cư trú, rồi theo hẹn của gia đinh Liệt sĩ, đúng 6 giờ sáng ngày 31 tháng 5/2012 xuất phát. Cũng là hành quân, xưa nặng trĩu ba lô súng đạn, đi bằng đôi chân leo đèo lội suối mấy tháng trời vất vả, còn bây giờ "hành quân" bằng ô tô máy lạnh do gia đình thuê!
Được gia đình đồng ý, tôi mời thêm Nguyễn Xuân Đặng, quê Hoài Đức - Hà Đông, liên lạc xưa của ông Đào Xuân Thái cùng đi. Sau năm 1970, Nguyễn Xuân Đặng giữ chức tham mưu trưởng huyện đội Cam Lộ, là người thông thạo địa hình, còn nhanh nhẹn và có trí nhớ tốt. Chắc sẽ góp công sức đáng kể cho chuyến đi. Thêm bạn đồng hành là thêm sự yên tâm...
19/08/2023 lúc 16:57
L
à hai nước láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa, Việt Nam và Lào đã chung tay viết nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc. Tình hữu nghị, đoàn kết giữa hai Đảng, hai nước Việt - Lào và sự gắn bó keo sơn giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay - xỏn Phôm – vi - hản trực tiếp gây dựng nền móng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, nâng niu và dày công vun đắp.
Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của lịch sử, hai nước Việt Nam - Lào cùng tựa lưng vào dải Trường Sơn hùng vĩ, sát cánh bên nhau, xây đắp quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào cao đẹp, mẫu mực, thủy chung, hiếm có trong lịch sử quan hệ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau... Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được....Thương nhau mấy núi cũng trèo, Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Việt - Lào, hai nước chúng ta, Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long". Chủ tịch Cay - xỏn Phôm – vi - hản cũng nói: “Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”. Tư tưởng lớn của hai nhà lãnh đạo đã trở thành kim chỉ nam soi đường, chỉ lối, được Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước thực hiện nhất quán trong suốt những năm tháng chiến đấu chống kẻ thù chung, giành độc lập, thống nhất đất nước đến hòa bình, xây dựng, đổi mới, hội nhập và phát triển...
19/08/2023 lúc 16:57
S
au lời đề nghị chân thành, thân tình của chúng tôi, cựu chiến binh Phan Thanh Linh nguyên là tình nguyện quân Việt Nam ở Lào vừa nhấm nháp ly rượu do người bạn thân ở Lào gửi tặng vừa đăm chiêu, hồi tưởng lại những sự kiện khó quên, những kỷ niệm sâu sắc nhất trong những năm tháng cầm súng chiến đấu vào sinh ra tử trên chiến trường Trung Lào để tiễu trừ lũ phỉ Vàng Pao. Với dòng kí ức, kỷ niệm tuôn trào anh dẫn dắt chúng tôi đi vào câu chuyện.
Như các anh đã biết, năm 1979 lũ quỷ diệt chủng Khơ Me Đỏ bị quân dân Campuchia với sự giúp đỡ vô tư, quý giá của quân tình nguyện Việt Nam đánh tan, cứu đất nước Chùa Tháp thoát khỏi họa diệt vong, cuộc sống được hồi sinh thì một bộ phận tàn quân Pôn Pốt chạy trốn sang Lào gia nhập vào đội ngũ thổ phỉ Vàng Pao tiếp tục quấy nhiễu, giết chóc những người dân Lào và dân Việt hiền lành, lương thiện đang sinh sống trên đất nước Triệu Voi, nhất là ở các vùng biên giới Việt Lào, vùng rừng sâu núi thẳm đèo cao.
Tôi gia nhập đội quân tình nguyện tháng 8 năm 1980 thuộc đơn vị C5D8E830F968 là sư đoàn làm nhiện vụ quốc tế cao cả ở nước bạn Lào. Đơn vị tôi đóng quân ở bản Mày và bản Na Kè cách thị trấn Đồng Hến tỉnh Savanakhet mười lăm cây số. Chúng tôi vừa xây dựng doanh trại vừa chiến đấu chống bọn thổ phỉ thường xuyên rình rập, tập kích đánh lén chúng tôi và giết hại thường dân vô tội. Vừa hành quân sang nước bạn Lào được chín ngày, đơn vị chúng tôi đã nhận nhiệm vụ truy lùng, tiêu diệt lũ thổ phỉ Vàng Pao cùng tàn quân Khơ Me Đỏ đang hoành hành đốt, cướp, giết, hiếp trên vùng rừng rậm núi đồi bao la, hẻo lánh gần như vô chủ...
19/08/2023 lúc 16:57
T
hảng hoặc trên một số diễn đàn còn có ý kiến cho rằng: quá nhiều cuộc thi dẫn đến không thi thì không được mà thi thì cũng chẳng có ý nghĩa gì? Vượt qua những suy nghĩ thông thường đó, cuộc thi tìm hiểu “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam” là một minh chứng nếu cuộc thi thực sự có ý nghĩa, bổ ích, thiết thực lại được tổ chức công phu chắc chắn sẽ tạo được sự đồng thuận, sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân. Cuộc thi là dấu ấn tình hữu nghị trong sáng thuỷ chung.
Với mỗi người dân Việt Nam và người dân của nước bạn Lào láng giềng thân thuộc hai câu nói nổi tiếng:“Việt - Lào, hai nước chúng ta/Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long” và "Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông" của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản kính mến đã khắc sâu vào tâm khảm.
Cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn, có nét tương đồng về các điều kiện dân cư, xã hội và lịch sử; đặc biệt trong tiến trình lịch sử, cả hai dân tộc đều phải ngoan cường chống ngoại xâm, trong đó có một thời gian khá dài cùng kẻ thù chung, cùng chung chiến hào để bảo vệ nền độc lập dân tộc của mỗi nước. Nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào may mắn và tự hào có người bạn láng giềng, vừa là đồng chí vừa là anh em, đồng cam cộng khổ, chia ngọt xẻ bùi “hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”. Người dân Lào thì coi nhân dân Việt Nam là “Bản cạy, hươn khiêng” nghĩa là “bản kề, nhà cạnh”. Đó chính là mạch nguồn tạo nên dòng sông lớn - mối quan hệ đặc biệt, hiếm có và trở thành một điển hình, một tấm gương mẫu mực về sự gắn kết bền chặt, thuỷ chung trong sáng và hiệu quả hai nước Việt-Lào...
19/08/2023 lúc 16:57
Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, nhân dân hai nước Việt Nam - Lào chưa một ngày được sống trong hòa bình lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh mới do đế quốc Mỹ gây ra. Đất nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền.
19/08/2023 lúc 16:57
C
ứ mỗi độ xuân về, không hiểu sao tôi lại da diết nhớ những cái Tết Quảng Trị. Mà không hẳn chỉ là nỗi nhớ, tôi như đang được sống, đón Tết, đón xuân cùng đất và người Quảng Trị - cái vùng đất tôi đã để lại cả tuổi thanh xuân, cả thời trai trẻ. Cái vùng đất một thời ngỡ đã bị nghiền nát dưới trùng trùng đạn bom, dưới trùng trùng gót giày quân xâm lược. Cái vùng đất mỏng manh nằm kẹp giữa núi cao và biển cả, dữ dằn nắng gội, mưa chan. Vùng đất mùa hè ngùn ngụt gió Lào, mùa đông sụt sùi gió bấc, mưa dầm.
Nhưng lạ kỳ thay là mùa xuân Quảng Trị. Trên miền quê ngỡ như hoang tàn, ngỡ như cỗi cằn này, khi Tết đến vẫn đằm thắm sắc hoa xuân. Hoa xuân Quảng Trị cũng mang đậm tính cách người Quảng Trị, giản dị, mộc mạc, phong sương mà lộng lẫy, nồng nàn. Bởi hoa và người, người và hoa cùng được sinh nở trên vùng đất lịch sử máu và hoa. Vùng đất từng một thời dội vang hịch Cần Vương của vị vua trẻ tuổi Nguyễn Phước Ưng Lịch từ căn cứ địa Tân Sở. Vùng đất còn vọng mãi lời nói của vị Hoàng đế trên bãi biển Cửa Tùng, mang dáng dấp một lời hịch cứu nước: “Tay bẩn thì lấy nước mà rửa. Nước bẩn thì phải lấy máu mà rửa!”. Vùng đất có dòng sông xanh đến lạ lùng, hiền đến lạ lùng mà suốt hai mươi năm có lẻ, quặn đau nỗi đau chia cắt của đất nước, của dân tộc. Vùng đất có ngôi thành cổ là pháo đài bất tử suốt 81 ngày đêm bão lửa, 81 ngày đêm đỏ máu và hoa; nơi có dòng sông hiền hòa, mà thuyền ai xuôi trên đó hãy “xin chèo nhẹ” bởi mùa hè đỏ lửa năm một chín bảy hai dưới “đáy sông còn đó bạn tôi nằm”, nơi biết mấy “tuổi thanh xuân thành sóng nước”.Vùng đất của những con người quả cảm, cần lao trong cuộc hành trình mấy trăm năm “mang gươm đi mởcõi”, trong gần nửa thế kỷ cầm súng không ngưng nghỉ trên tuyến đầu chống lại những đạo quân xâm lăng cường bạo nhất của thế kỷ XX, giữ gìn từng tấc đất thiêng liêng của cha ông…!
19/08/2023 lúc 16:57
C
ổ nhân khuyên: Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh
Lại nói: Một nghề cho chín, hơn chín mười nghề.
Nhưng ông Phan Quang, người bước vào tuổi 85 với tập bài báo nhỏ Xuân bao nhiêu tuổi là người có rất nhiều nghề mà xem ra nghề nào cũng tinh, cũng chín, cũng thành Nhà hẳn hoi. Tôi không nhầm thì trong cõi nước Nam hiện nay, ông chưa là người nhiều Nhà nhất, nhưng là hàng thứ nhất của những người nhiều Nhà ra Nhà
1. Trước hết, ông là một nhà báo: Đầu kháng chiến chống Pháp, mới 17 tuổi, từ đất Quảng Trị ông được điều ra làm báo Cứu Quốc Khu IV, và cho tới nay, ông đã sử dụng tất cả các thể loại báo chí: từ một tin nhỏ, bài báo, đến phóng sự, điều tra, bình luận, xã luận, chuyên đề… Chẳng ai nhớ hết, thống kê hết số lượng bài báo. Nhưng in lại được một phần những bài viết không chỉ ghi dấu những mốc son lịch sử của đất nước mà còn có giá trị thời sự như Phan Quang tuyển tập kỷ niệm tuổi 70 như ông là của hiếm...
19/08/2023 lúc 16:57
V
ừa thăm lại chiến trường xưa thuộc vùng Trung và Hạ Lào, vừa chuyển phân Con Công sang đây để cung cấp cho các bộ tộc Lào chăm bón cho các loại cây công nghiệp đang phát triển trở về, Cựu chiến binh doanh nhân Nguyễn Thế Hoài - Giám đốc Công ty TNHH Trường Anh tuy bận rộn với việc điều hành, quản lý hai nhà máy vẫn dành cho chúng tôi vài giờ gặp gỡ, giao tiếp tình. Anh vồn vã mời chúng tôi những ly rượu thơm nồng đậm đà của những người bạn Lào chí thân đã một thời sát cánh cùng đơn vị quân tình nguyện của anh vào sinh ra tử trên các chiến trường tiểu trừ lũ phỉ Vàng Pao và tàn quân Khơ - me đỏ để bảo vệ dân Lào và Việt kiều, anh vừa đăm chiêu hồi tưởng lại những năm tháng làm song song hai nhiệm vụ: Cầm súng chiến đấu và cầm kềm búa rèn cuốc, cày, dao, rựa… cung cấp cho nhân dân nước bạn ở nhiều bản làng thuộc huyện Đồng Hến và Ác – xa – phăng - thông tỉnh Sa – van – na - khẹt. Những kỷ niệm sâu sắc dạt dào trong anh và chúng tôi như được cùng anh trở về những năm tháng sống động hào hùng trên chiến trường Trung - Hạ Lào cách đây hơn 30 năm về trước.
Sau khi tốt nghiệp trường phổ thông cấp 3 Vĩnh Linh (Bình Trị Thiên) tháng 2/1980 tôi tình nguyện nhập ngũ thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của người đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh. Sau mấy tháng tập luyện gian khổ với quyết tâm: “đổ nhiều mồ hôi trên thao trường, đổ ít máu xương trên trận địa” tôi được biên chế vào đơn vị pháo binh C14 trực thuộc E830 F968 là Sư đoàn làm nhiệm vụ quốc tế cao cả và vinh quang ở nước bạn Lào...
19/08/2023 lúc 16:57
N
gày 26/6/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 794/QĐ-TTg về việc thành lập Ban chỉ đạo Trung ương phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” (TDĐKXDĐSVH) trên cơ sở hợp nhất Ban chỉ đạo Trung ương phong trào TDĐKXDĐSVH và Ban vận động Trung ương cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị ban hành Quyết định 2288/QĐ-UBND ngày 22/11/2012 về việc thành lập Ban chỉ đạo phong trào TDĐKXDĐSVH tỉnh, đồng thời xây dựng quy chế hoạt động, hướng dẫn các huyện, thị xã, thành phố thành lập ban chỉ đạo mới, xây dựng kế hoạch hoạt động, kế thừa và phát huy thành quả sự nghiệp xây dựng đời sống văn hóa của tỉnh trong những năm qua.
Trên cơ sở hoạt động của phong trào TDĐKXDĐSVH do Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch Quảng Trị chủ trì và cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” do Ủy ban MTQVN tỉnh Quảng Trị chủ trì, những năm qua công tác xây dựng đời sống văn hóa ở các địa phương trong tỉnh đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Trong những ngày lễ lớn của quê hương, đất nước, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao được tổ chức đều khắp ở các địa phương trong tỉnh, thu hút đông đảo nhân dân tham gia sôi nổi. Hoạt động chiếu phim được tổ chức chu đáo, lồng ghép nhiều nội dung truyền thông có tác dụng tốt trong việc nâng cao nhận thức về mọi mặt của người dân trong tỉnh, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Công tác tuyên truyền, phổ biến tiêu chuẩn, tiêu chí công nhận danh hiệu làng văn hóa; gia đình văn hóa; cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới…theo các quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh, quy chế, thông tư của Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch được tiến hành thường xuyên, tạo sự chuyển biến về nhận thức của các tầng lớp nhân dân, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh...
19/08/2023 lúc 16:57
K
hoảng 10 giờ sáng ngày 15 tháng 10 năm 1998 khi tôi đang làm việc tại phòng thì cô văn thư vào báo “Thầy có bạn cũ đến thăm”. Tôi vội sắp xếp giấy tờ để gặp khách, thì ông bạn đã đứng ngay trước cửa phòng lớn tiếng hỏi “Đây có phải là phòng của ông Trưởng phòng Lê Gia Hà không?”. Nghe giọng nói vừa nhìn rõ mặt nên tôi trả lời. “Là thầy Đỗ Tất Duyện người làng Nghĩa An, Cam Thanh phải không?” ông bạn bảo “Cậu này khá đấy”!. Thế rồi chúng tôi ôm chầm lấy nhau mà mắt cay, tim đập loạn xạ.
Đã hơn 35 năm mới gặp nhau, chúng tôi vốn là những giáo viên của Khu vực Vĩnh Linh – nơi tuyến đầu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa những năm 60 của thế kỷ trước. Anh Hồ Tất Duyện được điều động vào Nam ở địa bàn Quảng Trị cùng đoàn khoảng 25 giáo viên mà hồi ấy gọi là đi B. Tôi được phân công đưa học sinh ra Bắc theo Kế hoạch K8 lúc đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt Vĩnh Linh, đi học đại học, vào quân đội tham gia chiến dịch giải phóng Quảng Trị năm 1972. Trở lại công tác ở Quảng Trị từ 1976 đến 2001 thì nghỉ hưu. Mỗi người mỗi ngã đến bây giờ mới được gặp nhau. Quý hóa cảm động biết bao nhiêu. Tôi rủ ông bạn ra “quán bia 4 bà”, cái quán bia “khổ” thuộc đất của chợ Đông Hà bấy giờ để giãi bày tâm sự. Bia vào, lời ra, lòng xốn xang bao niềm trắc ẩn. Nhìn ông bạn với bộ đồ lính bạc màu, mái tóc xác xơ, vết thương hằn sâu ở cổ, khi nói phải đặt tay vào chỗ lõm của vết thương mới nói được rõ lời. Tôi không cầm được nước mắt, nắm chặt tay anh và muốn anh kể cho nghe chuyện những năm tháng đã qua thời máu lửa của anh và bạn bè thời đi B năm xưa. Anh ngậm ngùi kể: “Mày có biết không? Tao và mấy chục thằng giáo viên quê ở phía Nam Quảng Trị được điều động đi Nam, chỉ qua một đợt huấn luyện ngắn, rồi được cấp phát các thứ cần thiết vượt tuyến vào Nam”. Một số cậu được phân công lên vùng núi, vừa phục vụ chiến đấu vừa tham gia giảng dạy các loại lớp học vùng chiến khu, vùng giải phóng. Còn hầu hết được phân công về đồng bằng – nơi Mỹ ngụy kiểm soát, ai về quê nấy để tiện bề hoạt động vì đã thuộc thông thổ. Tao được phân về làng Nghĩa An bờ bắc sông Hiếu. Đêm đầu tiên về làng thật sự hồi hộp, xúc động. Hơn mười mấy năm xa quê tao vẫn dễ dàng tìm về đúng ngõ nhà mình. Khi nhìn thấy mẹ đứng đầu hiên nhà tao vừa khóc vừa vội chạy đến với mẹ, mẹ tao nhảy ra và gọi: “Ôi! Có phải thằng Duyện đấy không?...”
19/08/2023 lúc 16:57
T
rong diễn văn nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ đầu, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã nhắc đến một địa danh ở Việt Nam gây nên bao nỗi kinh hoàng cho lính Mỹ ở thời chiến tranh. Đó chính là Khe Sanh – một thung lũng thuộc tỉnh Quảng Trị, ở bên đường 9 cách biên giới Việt – Lào chừng 10km.
Trong chiến tranh chống Mỹ, Khe Sanh đã được gọi là “Khe tử” của lính Mỹ. Nếu trận tiêu diệt tập đoàn cứ điểm quân Pháp ở thung lũng Điện Biên Phủ mang lại hòa bình cho miền Bắc Việt Nam qua Hiệp định Genève, thì trận nghi binh chiến lược ở thung lũng Khe Sanh từ ngày 24/1/1968 để tạo điều kiện cho toàn miền Nam tổng tấn công nổi dậy vào Tết Mậu Thân 1968 đã dẫn tới sự nhóm họp của Hội nghị bốn bên tại Paris vào mùa thu 1968. Năm nay, nhân kỷ niệm 45 năm chiến thắng Khe Sanh (1968 - 2013), bài viết này nhằm tổng kết lại thành tích đóng góp của đội văn nghệ thuở ấy, nhằm góp phần thôi thúc cảm hứng cho các nhạc sĩ hôm nay viết về Khe Sanh qua cuộc thi sáng tác ca khúc về Khe Sanh do Báo Lao Động tổ chức.
Ngay sau khi lính Mỹ ồ ạt vào miền Nam, từ mùa xuân 1967, lính thủy đánh bộ Mỹ đã có mặt ở Khe Sanh, xây dựng một phòng tuyến thép cùng sự yểm trợ của máy bay ném bom...
19/08/2023 lúc 16:57
N
ằm về phía tây của tỉnh Quảng Trị, Hướng Hóa là vùng đất có vị trí địa chính trị hết sức quan trọng: Phía nam tiếp giáp với tỉnh Thừa Thiên, phía bắc giáp với tỉnh Quảng Bình, phía tây giáp với tỉnh Savănnakhet - nước bạn Lào anh em; địa hình rừng núi hiểm trở, có đường 9 là huyết mạch giao thông nối liền Đông Hà- Lao Bảo….Từ đó, Hướng Hoá trở thành địa bàn trọng yếu, tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là cửa ngõ hành lang chiến lược của cả nước nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam.
Thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, năm 1964, Nhà Trắng đưa quân chiến đấu Mỹ vào chiến trường miền Nam thực hiện chiến lược chiến tranh mới: Chiến tranh cục bộ. Nhằm tạo lập một “chốt cứng” ở phí tây- bắc chiến trường Trị - Thiên, Mỹ - nguỵ đã tập trung một lực lượng quân sự lớn hòng biến tỉnh Quảng Trị nói chung và huyện Hướng Hóa nói riêng thành vành đai trắng. Chúng tập trung mọi binh lực và kỹ thuật hiện đại, dựng lên hàng rào điện tử Mác-na-ma-ra chạy dài từ Cửa Việt lên đến tận biên giới Việt – Lào; trang bị nhiều vũ khí tối tân như máy bay B52, pháo hạng nặng 175mm, chất độc màu da cam, thiết bị nghe nhìn điện tử...cùng các loại vũ khí giết người kiểu mới, đồng thời dốc sức xây dựng tập đoàn cứ điểm Khe Sanh gồm các cứ điểm: Tà Cơn, Làng Vây, Khe Sanh và Huội San (Lào)... trở thành khu vực phòng thủ mạnh nhất. Cụm cứ điểm Tà Cơn được xây dựng với hệ thống công sự dày đặc, hình thành thế trận phòng ngự kiên cố, liên hoàn với cứ điểm Làng Vây nằm trên trục đường 9...
19/08/2023 lúc 16:57
T
ôi sống hơn hai mươi năm ở Hà Nội, gần hai mươi năm ở Huế và cũng gần hai mươi năm ở Sài Gòn nhưng cảm giác mình là người Quảng Trị không hề rời khỏi tôi dầu trong giây lát. Tôi không phải là kẻ giáo điều cuồng tín, tin răm rắp vào những giáo huấn ngày xưa như “Không nơi nào đẹp bằng quê hương mình” (Quốc văn giáo khoa thư) hay “Ta về ta tắm ao ta….” (Ca dao). Vậy thì do đâu mà tôi khó quên gốc gác của mình? Suy đi nghĩ lại, cuối cùng tôi tìm ra được vài nhân tố hun đúc cho người Quảng Trị có nét văn hoá khá đặc thù.
Trước hết đó là ngôn ngữ hay nói một cách cụ thể là cách phát âm cũng như từ vựng địa phương. Thời tôi học đại học ở Hà Nội, bạn bè tôi người Bắc thường nhận xét: “Tiếng của mày như tiếng trẻ con, chưa hoàn chỉnh”. Tôi mơ hồ thấy mình tự ti vì cách phát âm nặng, nhầm lẫn thanh hỏi ngã.v.v. Cũng may là thế hệ tôi đã thạo dụng từ phổ thông, biết nói cái “đầu” chứ không phải là cái “trôốc”, biết nói cái “sân” chứ không phải là cái “cươi” như các bậc cha chú ngày trước. Về sau khi có dịp làm quen với những nghiên cứu ngôn ngữ học, tôi phát hiện ra rằng tiếng Quảng Trị chứa rất nhiều từ Việt cổ. Những từ này theo thời gian “trôi” từ Bắc vào Nam, hoặc giả tồn tại từ thời Quảng Trị thuộc Bộ Việt Thường và lưu giữ qua nhiều biến cố lãnh thổ, khi thuộc Việt, khi thuộc Champa. Chẳng hạn từ “trôốc” mà người Quảng Trị còn dùng thường ngày thì ở ngoài Bắc chỉ có mặt trong cụm từ cố định “ăn trên ngồi trốc”. Tôi nhớ thời nhỏ đi qua vùng An Mỹ thuộc huyện Gio Linh nghe các cụ già gọi con trâu là con “tlâu”, cây tre là cây “tle”. Đối chiếu với tiếng địa phương Nam Định hay Ninh Bình thời các giáo sỹ dòng Tên ghi chữ quốc ngữ để giảng đạo thấy Chúa Trời được gọi là Chúa Blời”… Tiếng Việt cổ xuất phát từ đâu, ngữ hệ Môn-Khmer hay Hán Tạng, tôi không có chuyên môn đủ để đoán nhận nhưng theo thiền sư Lê Mạnh Thát, một người gốc Quảng Trị am tường ngôn ngữ và lịch sử thì rất nhiều từ Việt cổ có trong tiếng Tây Tạng hiện đại, chẳng hạn từ “trôốc” được người Tây Tạng gọi là “gtok”. Từ nỗi tự ti mơ hồ ban đầu, tôi chuyển sang trạng thái mơ hồ tự hào về gốc gác ngôn ngữ. Người Quảng Trị hoá ra thuộc nhóm người Việt cổ trên mảnh đất ngàn năm của mình chứ không hẳn là nhóm người theo chân Chúa Nguyễn đi vào đất Hoành Sơn! Một điều nữa khá đặc biệt gây nên “tính Quảng Trị” cố hữu của tôi là tôi xa quê hương từ hồi muời hai tuổi nhưng giọng nói thì không hề thay đổi. Năm 1975 tôi trở về quê nhà sau gần ba mươi năm xa cách, bà con chú bác ở quê thích thú thấy tôi vẫn giữ tiếng nói quê nhà, không hề pha tạp chút nào...
Hiện tại
26°
Mưa
03/07
25° - 27°
Mưa
04/07
24° - 26°
Mưa
05/07
23° - 26°
Mưa