01/08/2024 lúc 17:25
02/03/2022 lúc 08:55
C
âu thơ là đơn vị cấu thành cơ bản của tác phẩm thơ. Nói chung câu thơ trùng với dòng thơ (như trong thơ 4, 5, 6,7 ,8 tiếng) chỉ riêng lục bát hai dòng, tự do một dòng nhiều câu hoặc một câu nhiều dòng (như trường hợp bài thơ Tập qua hàngcủa Chế Lan Viên).
Vì thế, có lẽ nên thống nhất quan điểm tính đơn vị câu thơ ở chỗ là ngắt xuống dòng bốn lần như trong tứ tuyệt.
Theo quan điểm trên thì câu thơ là một dòng thơ, là một đơn vị nhịp điệu, đơn vị ý nghĩa thơ, đơn vị liên kết trong bài thơ. Theo L.Timôphêep, câu thơ là một đơn vị đơn giản nhất của ngôn ngữ xúc cảm, là đơn vị ngữ điệu độc lập, là hình thức tổ chức ngôn ngữ để bộc lộ tính cách(có lẽ đấy là cái tôi- VVL nhấn mạnh). Câu thơ còn là một đơn vị của lời văn, lời nói nghệ thuật. “Người mang lời nói có giọng nói riêng, nhờ vậy, thế giới bên trong của nhân vật, không chỉ được phát hiện ở ý nghĩa lôgic của lời nói mà còn bộc lộ qua cách nói, cách tổ chức lời nói”. Giọng nói riêng ấy chính là phong cách ở nhà thơ, thường đóng dấu rõ nét trên một thể loại sở trường nào đó.
Trên đại thể, câu thơ hiện đại khác câu thơ truyền thống ở chỗ mang lời nói tự nhiên của đời sống vào thơ. Câu thơ tự do đã chiếm ưu thế với tính năng động , co duỗi tự nhiên, ít lệ thuộc vào vần, câu thơ toàn vần bằng hay toàn vần trắc; hoặc phần lớn là vần bằng, phần lớn là vần trắc, vào hoà thanh và nhịp cố định. Nhịp của thơ là nhịp điệu của tâm hồn.
Các câu thơ mang ý nghĩa triết học hay tổng kết một vấn đề, nêu lên một kinh nghiệm, một bài học, một suy nghĩ sâu sắc, một nhận xét, một quan sát tinh tế, lịch lãm thường là những câu thơ hay của tứ tuyệt, trọn vẹn cả hình thức nghệ thuật: Ngữ điệu, tiết tấu lạ và thuận tai, cách dùng ẩn dụ tinh tế, cách chọn từ công phu. Theo PGS Nguyễn Khắc Phi: “Trong các cuốn từ điển danh cú (những câu thơ hay, những câu văn hay) xuất bản gần đây ở Trung Quốc, những câu thơ tuyệt cú đời Đường thường chiếm tỷ lệ cao nhất so với các thể tài khác. Nhiều danh cú trích từ tuyệt cú đời Đường đã biến thành câu nói thường ngày thể hiện những chân lý phổ quát của cuộc sống muôn thuở”.
Mỗi bài thơ tứ tuyệt là một chỉnh thể trọn vẹn. “Thể tuyệt cú cũng theo phương hướng khai - thừa - chuyển - hợp của luật thi”. Nghĩa là câu đầu khởi nhập, câu hai chuyển tiếp câu đầu, câu ba chuyển từ đề mục để khởi phát ý mới và câu bốn là hội tụ của ba câu trên nhập lại cùng nhau.
Song xét trong thực tế không bao quát được sự đa dạng trong cấu trúc của thơ tứ tuyệt . Có kiểu bài từng câu có vị trí độc lập (nhất cú nhất tuyệt) tạo nên vẻ đẹp của bức tranh tứ bình. Bài ngũ tuyệt dưới đây có thể xem là khá tiêu biểu cho sự toàn vẹn ấy:
Tháng năm xanh ai đốt
Tàn tro bay trắng đầu
Về quê thăm bạn cũ
Mây bồng bềnh mắt nhau
(Thăm bạn - Nguyễn Ngọc Oánh)
Nhà thơ có cái tài lấy một sợi tóc (một hoán dụ) từ xanh đến bạc mà gói được cái kiếp người ngắn ngủi trong bể dâu thân phận. Bài tứ tuyệt cô đọng trong mỗi chữ mỗi câu mà chất chứa, dồn nén tình người, tình bạn sâu nặng và cảm động.
Song bố cục thường gặp nhất ở một bài tứ tuyệt là theo công thức 2/2. Tuy nhiên, theo khảo sát một số lượng lớn thơ tứ tuyệt đời Đường của của PGS Nguyễn Khắc Phi thì thấy “bố cục hết sức đa dạng: 1/1/1/1, 2/1/1, 1/1/2, 1/3, 3/1”.
Cũng cần thấy rằng đặc điểm thơ tứ tuyệt không chỉ thể hiện qua cách luật (vì nếu xét vậy thì thơ tứ tuyệt hiện đại khó nhận ra trong cấu trúc này).
1. Câu thơ thứ nhất:
Câu thứ nhất là khởihoặc phá - Giữ vị trí khiêm tốn, chỉ là sự mở đề, tạo ra “duyên cớ” để triển khai tứ thơ nhưng thường ngay trong câu đầu đã hàm chứa nội dung, hàm chứa tình cảm tác giả. GS Phan Ngọc cho rằng: do cái tứ nảy sinh bài thơ tứ tuyệt là chủ yếu nên thường cái câu hay nhất, cái câu phát hiện tứ thơ thường đến trước. Câu ấy thường lùi vào vị trí thứ 3,4 của bài thơ. Câu một hoặc hai chỉ làm cái việc “lắp ghép” cho hợp lý để hoàn thiện bài thơ. Lý thuyết thì như vậy nhưng theo chúng tôi, “vạn sự khởi đầu nan”, vào đề xuôi chèo mát mái được phải tìm giọng. G. Maket, nhà văn lớn của Châu Mỹ La -tinh và của thế giới thú nhận rằng bắt đầu tác phẩmTrăm năm cô đơn rất vất vả vì không tìm được giọng. Nên không thể coi thường thể “thơ cầm tay” (chữ Chế Lan Viên) như tứ tuyệt....
02/03/2022 lúc 08:55
T
húy Sâm lặng lẽ lao động bằng cây bút, chăm chỉ như một nông dân vùng sâu vùng xa trồng dược liệu quý, cần mẫn như con tằm kéo kén và hôm nay có được nén tơ vàng thơm “Cánh sóng miền xa”. Đây là tập bút ký, tùy bút, ghi chép gồm một số tác phẩm đã đăng tải trên các báo, tạp chí và các tuyển tập văn chọn lọc.
Thúy Sâm khiêm tốn nói rằng: Em viết văn không nhằm trải một manh chiếu giữa làng văn cả nước, chỉ viết bằng tình yêu và trách nhiệm. Nay tập hợp lại làm món quà tinh thần nho nhỏ gửi tặng nhân dân tỉnh nhà và những bạn văn thân thiết đó đây.
Đáng trân trọng là bản lĩnh và định hướng của Thúy Sâm. Tất cả những tác phẩm đều tập trung vào đối tượng công - nông - binh, vào cuộc sống lao động sản xuất, dựng xây, tình cảm cách mạng và tình cảm thuần Việt của họ. Giữa bao nhiêu nhốn nháo đi tìm cái khác lạ đến mức kỳ khôi, tác phẩm của Thúy Sâm bám chặt vào cội nguồn: Đất Quảng Trị, người Quảng Trị. Giữa bao nhiêu mưu toan lấy chủ quan của cá nhân làm thước đo thẩm định lại lịch sử đã qua, vĩ nhân đã được tôn vinh, Thúy Sâm vẫn đứng vững và bước đi trên con đường văn hóa văn nghệ của Đảng. Trước khi đặt bút xuống trang giấy đã trả lời được những câu hỏi viết như thế nào? Viết cho ai? Viết để làm gì? Tác phẩm viết ra chứa đựng nội dung trong sáng, rõ ràng quan điểm địch ta, tốt xấu, phải trái, nhìn rõ khó khăn, gian khổ của công cuộc xây dựng nhưng vẫn nhìn thấy phía trước một tương lai ngày càng tốt đẹp hơn.
Thúy Sâm đã từng là lính. Quê Thúy Sâm ở vùng biển Vĩnh Linh. Cái vùng quê ven biển ấy trong chiến tranh đã chịu ba tầng hỏa lực tàn sát của địch, từ trời dội xuống, từ Nam bắn ra, từ biển dội vào. Miền quê ấy đã có biết bao người con ưu tú hy sinh để chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, chi viện cho Cồn Cỏ anh hùng đứng vững cho đến ngày chiến thắng. Nay Thuý Sâm cầm bút viết văn, viết báo, mặc áo trắng, áo hoa nhiều sắc màu nhưng trở về với đồng đội tâm hồn bao giờ cũng đậm đà màu xanh của lính. Trở về với đồng đội là trở về với chính mình.
Đó là lý do Thúy Sâm vượt biển ra với những người lính giữ Cồn Cỏ - mảnh đất của Tổ quốc giữa trùng khơi; leo lên đỉnh Ba-rai cao vút lên Cù Bai với những chiến sĩ Biên phòng; tìm đến những chiến sĩ xây dựng đất nước trong thời bình ở những nơi xa xôi, hiểm trở; ghé thăm những cựu binh đào địa đạo Vĩnh Linh và những người trở lại với đời thường xây dựng cuộc sống mới.
Viết về người lính, Thúy Sâm phản ánh những hy sinh gian khổ của họ trong thời chiến và trong thời bình nhưng không dừng lại ở đó. Gian khổ và hy sinh của người lính người nào cũng biết, thời nào cũng biết, nhà văn nào cũng viết. Thúy Sâm chỉ lấy đó làm nền để tôn vinh phẩm chất cao quý của anh Bộ đội Cụ Hồ:Dù thời chiến đầy bom đạn, dù thời bao cấp nhiều thiếu thốn, thời thị trường đầy những đua chen, anh Bộ đội Cụ Hồ vẫn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, vì nhiệm vụ sẵn sàng tạm gác hạnh phúc và quyền lợi riêng tư. Từ trung tá Nguyễn Tấn Trịnh đồn trưởng đồn Cù Bai đến người lính già lái xe Đinh Văn Khả, những người lính trẻ Công Bình, Phan Hồng Chương, Nguyễn Văn Thắng… mỗi người một nét đẹp, mỗi cá tính riêng nhưng tất cả cùng một phẩm chất cách mạng.
Viết về công nông Thúy Sâm không thiên về miêu tả những giọt mồ hôi, gõ búa, gieo trồng, gặt hái… bởi nó cũng “xưa như trái đất”. Tác giả tập trung phát hiện những ý chí vươn lên làm ăn ngày càng no đủ, làm giàu, phát hiện những con người táo bạo và dũng cảm vượt lên hoàn cảnh, tưởng là bình thường mà phi thường, có sức lay trời chuyển đất. ấy là những người nông dân Triệu Phong chỉ một chiếc xe kéo tay dám dời cả làng ra vùng cát, giăng dây chia nhau đất, áp dụng khoa học kỹ thuật trồng lạc, dưa hấu, bắp… và đã thắng lợi. Một vùng cát hàng ngàn héc ta hàng ngàn năm ngủ yên và gây hại bây giờ đã “nở hoa” trở thành vùng sinh thái trù phú và xanh tươi màu hoa trái “hiện rõ lên màu ấm no”.
Họ là những công nhân giữa đại ngàn xanh, chăm chỉ ươm mầm trồng thêm hàng ngàn héc ta bạch đàn, keo… phủ xanh đồi trọc. Họ dám ra đảo xa xây dựng làng mới, huyện đảo. Họ chắt chiu dòng nhựa trắng cho đời… Mỗi con người một vị trí, một công việc khác nhau trở thành nhân vật trong văn Thúy Sâm là con người mới xã hội chủ nghĩa. Là mẫu người của thời hội nhập không thể hòa tan...
02/03/2022 lúc 08:55
C
hiến tranh đã từng cày nát mảnh đất này, mấy chục năm hoà bình vẫn chưa liền sẹo. Bão lụt, nắng hạn, gió cát đã, đang và sẽ còn gây tai hoạ cho mảnh đất này... Nhưng sức sống cứ trồi lên: “Hoa là giấc mơ của Đất. Âm nhạc là khát vọng của Đất” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hồn nhạc Quảng Trị đủ hằn lên năm tháng một cốt cách, một tinh thần của những con người giàu lòng thuỷ chung ân nghĩa, đoàn kết một lòng đối mặt cùng thử thách. Phải chăng, đây chính là những phẩm chất tinh tuý góp phần tạo nên và nuôi dưỡng nhiều hồn nhạc, để đến ngày tỉnh Quảng Trị được lập lại, trở về với tên gọi chính mình, thì những người con sinh ra từ núi cao sông dài của quê hương và bạn bè khắp chốn lại hát tiếp dòng giai điệu sử thi hoành tráng của một Quảng Trị dựng xây ngày mới. Vâng, “Tất nhiên là thế, những gì đã đủ sức mạnh chuyển hoá thành tâm hồn thì không thể tự nó mất đi, mà mãi mãi sinh thành” (Hoàng Phủ Ngọc Tường).
Tháng 7 năm 1989, tỉnh Quảng Trị được lập lại. Đồng hương Quảng Trị tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh viết thư nhắn nhủ Trần Hoàn cố gắng dành thời gian viết bài hát cho tỉnh nhà nhân sự kiện quan trọng đó. Ban Biên tập Báo Quảng Trị cũng đã tìm đến, đề nghị ông viết bài hát để đăng trên số báo đầu tiên. Nhạc sĩ nhận lời và khi chuẩn bị xuất bản số báo thứ 3 thì nhạc sĩ gửi đến toà soạn Báo một bản nhạc ghi ngày 10/7/1989, đó là ca khúc “Quảng Trị yêu thương”. Cùng lúc đó, ông tặng Đài phát thanh Quảng Trị băng thu thanh ca khúc này do NSƯT Ái Xuân thể hiện. Khó có thể nói hết cảm giác rưng rưng khi giai điệu đầy yêu thương và tự hào của bài hát vang lên trong bộn bề gian khó của những ngày đầu tỉnh nhà được lập lại:
“Quảng Trị ơi, quê mẹ của tôi ơi
Chẳng thể nào quên tiếng mẹ ru hời
Rằng không thơm cũng thể hương đàn
Không trong cũng thể nước nguồn Hàn chảy ra”
Quê hương tình sâu nghĩa nặng nên hầu như mỗi lần về thăm quê là ông lại có bài hát mới. Những “Gửi mẹ yêu thương” (Thơ Lê Bá Tạo), “Lang lư Khe Sanh”, “Đẹp lắm cuộc sống Quảng Trị ơi”, “Chào đường Chín xanh”... lần lượt ra đời trong niềm cảm hứng chân thành của người nhạc sĩ tài hoa.
Những ngày cuối năm 1989, Sở VHTT Quảng Trị có mời một đoàn nhạc sĩ từ Hà Nội vào thực tế sáng tác. Và chuyến đi này đã cho ra đời một loạt ca khúc hay, có sức sống lâu bền trong công chúng Quảng Trị nói riêng và cả nước nói chung. Đó là Tân Huyền với “Cỏ non Thành Cổ”, là lời nhắn nhủ chân tình mà mỗi người dân Quảng Trị hôm nay và mai sau luôn ghi nhớ. Là Thuận Yến với “Nỗi đau và hạnh phúc”, “Người được mang họ Hồ”; là Vũ Thanh với “Quảng Trị mảnh đất ta yêu”, và ước mơ về một thành phố bên sông Hiếu trong “Khát vọng Đông Hà”. Nhạc sĩ Huy Thục thì có “Bản làng mang họ Hồ”, Phú Quang có “Nhịp điệu Quảng Trị”,... Hoàng Sông Hương có “Trở lại Thành Cổ”... Cũng trong thời gian đó, hai nhạc sĩ Quảng Trị có hai bài viết về quê hương mình thật chân thành, da diết, đó là Lê Anh với “Giọng hò thương nhớ”, và Võ Thế Hùng với “Khúc ru Trường Sơn”. Đó là những gì có thể kể ra trong những ngày đầu tỉnh nhà được lập lại.
Thời gian sau, từ hiện thực cuộc sống tái thiết quê hương, bức tranh Quảng Trị đã được vẽ trong những gam màu tươi sáng, mộc mạc, chân thành và rất đỗi yêu thương. Nhạc sĩ Lê Anh làm hẳn một album mang tên “Giọng hò thương nhớ” với hầu hết các sáng tác viết về các địa phương trong tỉnh. Nhạc sĩ Thanh Liêm với album “Hoa cỏ”, trong đó có các ca khúc rất được yêu thích như “Lời ru Akay”, “Về La Ngà”... Trần Tích sau thành công của bài “Mẹ” lại có “Nhịp cầu xuyên Á” phóng khoáng, tự tin, Nhạc sĩ trẻ Xuân Vũ định danh bằng ca khúc “Mồ hôi đá”, sau đó cũng rất thành công với “Bài ca thống nhất”, “Khúc ru rừng thiêng”. Nhạc sĩ Thanh Ngọc sau “Hoa phong ba” lại có một loạt bài ghi dấu ấn trong lòng công chúng như “Mùa trăng”, “Gio linh khúc ru tình”, “Âm vang bên Krông Klang”. Nhạc sĩ Lê Quang Nghệ vẫn trung thành với dòng nhạc dân gian truyền thống, trước lúc đi xa ông cũng kịp để lại cho đời một giai điệu “Về Cam Lộ” da diết ân tình....
02/03/2022 lúc 08:55
A
i cũng có một miền quê thân thương nơi sinh ra và lớn lên ở đó. Cũng có khi đó là cái gốc, là cội nguồn gia đình, gia tộc để từ đó ra đi và trưởng thành.
Trong những năm đánh Mỹ, do hoàn cảnh tạm thời chia cắt, nhiều nhà văn tập kết miền Nam, đã phải xa cách quê nhà. Tưởng hai năm mà đằng đẵng gấp mười lần thế.
Đây cũng là thời nổi lên trong văn học, một dòng thơ văn - tạm gọi là thơ văn đấu tranh thống nhất. Tế Hanh nổi tiếng với Con sông quê hương, Xuân Diệu day dứt một nỗi niềm Nhớ quê Nam trong đó có sông Gò Bồi, có tháp Chàm Bình Định…, còn Tố Hữu có Quê mẹ là tiếng hát của tình thương yêu, tôn vinh người mẹ gắn kết máu thịt với quê hương và cách mạng.
Chế Lan Viên cũng là nhà thơ miền Nam, có quê Nam. Bởi Quảng Trị và Bình Định nằm ở phía bên kia giới tuyến. Thực ra là hai quê hương nhưng tạm ở một miền. Tiểu sử ghi ông sinh ở Cam Lộ, Quảng Trị. Đến năm 1927 gia đình chuyển vào An Nhơn, Bình Định. Theo dòng sáng tác, Chế Lan Viên được coi là người viết sớm nhất cho dòng văn học đấu tranh thống nhất: Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm (1952) được in trong Gửi các anh.
Điều đặc biệt với Chế Lan Viên là quê hương sinh thành cũng là vùng quê sáng tác. Nơi đó là dấu ấn sâu đậm cuộc đời mà cũng là mảnh tâm hồn thắm thiết trong đời thơ. Ngay cả ở Hội An, một đô thị cổ, nơi Chế Lan Viên đã có ít tuổi thơ ở đó (sáu, bảy tuổi), mà cũng sâu nặng tình yêu Hội An Chẳng là quê/ Mà là hương khổ thế! (Hội An) "Hương chùa hay hương tóc" đã quyện thành "hương người", "hương quê".
Quảng Trị, Bình Định, hai miền quê hương ruột thịt nổi lên như mảnh hồn thơ sáng láng Chế Lan Viên.
Thực ra Quảng Trị chỉ là quê hương thuở ấu thơ. Nhưng sau này, đây lại là địa bàn hoạt động của chàng thanh niên yêu nước sôi nổi trong kháng chiến. Ở chiến trường Bình Trị Thiên, tính ác liệt lại như tăng gấp bội vì là vùng đất nghèo sỏi đá trong vùng kìm kẹp của kẻ địch. Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm (1952) là những giọt nước mắt lặn vào bên trong, nhớ thương bà mẹ đẻ cũng là bà mẹ chiến sĩ. Bài thơ thành thật cảm động khiến người đọc chảy nước mắt.
Nay mẹ bị cầm chân nơi đất giặc
Bốn phía là gươm, bốn bề là sắt
Mẹ mến thương ơi! Con mẹ đây rồi!
Nhưng mắt con không khóc nữa
Chừ có khóc cũng khóc thành ra lửa
Có ngã đau cũng dậy cho mẹ cười
Con sống hiên ngang và nếu chết sẽ nên đời.
Thương mẹ, nhớ quê, hẹn ngày kháng chiến thành công: Con sẽ lại khóc ròng / mẹ sẽ thương hơn....
02/03/2022 lúc 08:55
Đ
ã năm mươn năm kể từ ngày con người mang quyết tâm của cả dân tộc “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ra đời. Đó không phải là một quãng thời gian quá dài để nói về một câu chuyện lịch sử. Nhưng sau năm mươi năm, từ đường mòn thành đại lộ, huyền thoại Trường Sơn được viết tiếp trong khát vọng mạnh giàu của dân tộc. Và trong đó, một Trường Sơn âm thanh vẫn vang động đất trời.
Sự kỳ vĩ của con đường Trường Sơn huyền thoại, vai trò quan trọng của nó trong sự thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là điều mà ai cũng đã biết. Với âm nhạc, thì chỉ cần nghe tên của những bài hát, đã thấy sự lay động, rạo rực từ trong sâu thẳm tâm hồn như là máu thịt trong ta.
Rất nhiều máu đã đổ dưới mỗi bước chân đi trên lối mòn Trường Sơn đại ngàn, nhưng cũng từ đó, chiến thắng nở hoa để Vũ Trọng Hối phơi phới niềm tin viết nên ca khúc “Đường tôi đi dài theo đất nước”:
“Đời giao liên, bước tôi đi dài theo đất nước.
Đường tôi đi, núi chênh vênh, có mây bay dưới chân giăng thành.
Đời tôi như những con thoi dệt tình yêu quê hương thống nhất.
Đời tôi như cánh chim bay, cánh chim bay một dải Trường Sơn”.
Chưa hết, giai điệu của Vũ Trọng Hối còn tả rất thực cảnh Trường Sơn ngày đó: “Trên con đường ta đi / lũ trào thác xối / muỗi rừng vắt núi / Núi vút thành vách đứng / nắng hè khét đá, rừng khuya mấy lối”, nhưng có hề gì, bởi “ta đi theo ánh lửa từ trái tim mình” (Bước chân trên dải Trường Sơn).
Năm 1967, “đường dây vận tải 559” đã được nâng cấp thành một binh chủng hợp thành gồm công binh phòng không, giao liên, bộ binh, thông tin và đặc biệt là vận tải dưới sự chị huy của tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên. Hình ảnh những chiếc xe chở hàng, những cô gái thanh niên xung phong phá đá, mở đường, san lấp hố bom để “xe anh qua” đã là niềm cảm hứng mãnh liệt cho các văn nghệ sĩ. Nếu nhà thơ Phạm Tiến Duật nổi tiếng với bài thơ “Tiểu đội xe không kính” thì nhạc sĩ Tân Huyền lại hào sảng, lạc quan vút lên giai điệu của “Xe ta đi trong đêm Trường Sơn”:
“Những đêm Trường Sơn
Đường biên giới uốn quanh co, mây trời đẹp quá. Vỡ kính rồi trăng tràn cả vào xe”.
Trên con đường Trường Sơn, người chiến sĩ lái xe với “bao chuyến đi về” đã “thuộc từng hố bom, từng ngọn cây vách đá”, dẫu “đạn xé bom rơi, mưa rừng xối xả” vẫn “mang lửa nhiệt tình đi giải phóng quê hương”. Cùng trong dòng cảm xúc này còn có thể kể ra đây các bài “Trên đường tiếp vận” của Hoàng Vân, hay “Bài ca tiếp vận” của Thuận Yến. v.v... đã khái quát hình ảnh anh hùng của người chiến sĩ lái xe, những cô gái thanh niên xung phong trong mưa bom bão đạn vẫn bám trụ mặt đường, thông xe ra tuyền tuyến, bởi đường mòn Hồ Chí Minh không thể bị phá huỷ, nó đã trở thành mạch máu của cuộc chiến tranh giải phóng.
Hai bài hát điển hình viết về những cô gái thanh niên xung phong trên đường Trường Sơn là “Cô gái mở đường” của nhạc sĩ Xuân Giao và bài “Đường Trường Sơn xe anh qua” của nhạc sĩ Văn Dung...
02/03/2022 lúc 08:55
T
ác giả Văn Đản không phải là người sáng tác chuyên nghiệp. Suốt cuộc đời, ngoài 70 tuổi anh không đi đâu khỏi cái làng quê: Xóm Chùa xã Vĩnh Tân huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, nơi anh sinh ra, lớn lên và hoàn thiện nhân cách.
Anh là một nông dân thực thụ, một nông dân trăm phần trăm. Nhưng là một nông dân nghệ sĩ. Thời chống Mỹ, như bao người dân khác ở quê hương, anh Văn Đản là một trong những người “Giỏi tay cày, hay tay súng” bám trụ ngoan cường trên mảnh đất ngút trời khói lửa bom đạn để sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, góp phần mình vào việc đưa lực lượng Dân quân Du kích x·Vĩnh Tân được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang” trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Từ thực tiễn hào hùng của những tÊm gương đánh Mỹ bảo vệ quê hương ®· gợi nguồn cảm xúc sáng tạo nơi người nghệ sĩ nông dân ấy. Và thế là Văn Đản ngoài c¸i cày, khẩu súng trước đó, nay lại có thêm cây bút, một cây bút “Trường Sơn” bể nắp là của hiếm mậu dịch b¸nphân phối thời đó. Có bút rồi Văn Đản hăm hở viết. Anh viết thơ ca, hò, vè, tổ khúc, hoạt cảnh dân ca, kịch nói, dàn dựng tập luyện cho đội Văn nghệ x· nhà phục vụ nhu cầu đời sống tinh thần ngay trên trận địa, đường hào, vốn rất thiếu thốn trong sự ác liệt triền miên của cuộc chiến tranh, góp phần vào phong trào “Tiếng hát át tiếng bom”.
Thỉnh thoảng anh chọn một số tác phẩm gửi báo “Thống nhất” của Khu ủy Vĩnh Linh, các tập san, tạp chí và báo nói của tỉnh, Trung ương.
Tôi ®· đọc Văn Đản, biết anh cùng một số tác giả của Vĩnh Linh như: Lưu NiÖm, Thanh Bình, Hải Hiền, Văn Tuyên, Gia Tự, Đình Dúng v.v… từ những năm 1967 - 1968 thế kỷ trước. Đó là sự quen biết trên mặt báo. Bốn mươi năm rôi mà những tứ thơ, vần thơ ấy vẫn còn đọng đến bây giờ....
02/03/2022 lúc 08:55
N
ói đến hoạ sĩ miền Trung - Quảng Trị, anh em mỹ thuật nhớ ngay đến hoạ sĩ Trịnh Hoàng Tân không chỉ bởi những thành công trong sáng tạo nghệ thuật của anh mà còn bởi con người anh tràn đầy nhiệt tình bè bạn với lối sống chân tình và khát khao vươn tới của anh. Trong sự lầm lũi tiến về phía trước trong 20 năm qua ở Quảng Trị có ai được như anh với gần 30 giải thưởng mỹ thuật các hạng loại của Liên hiệp các Hội VHNH Việt Nam, Hội Mỹ thuật Việt Nam, các triển lãm mỹ thuật Toàn quốc, triển lãm Quân đội, triển lãm khu vực Bắc miền Trung và nhiều triển lãm lớn nhỏ khác nhau.
Có thể nói hoạ sĩ Trịnh Hoàng Tân vẽ khá đều tay, anh vẽ chủ yếu là sơn mài, đó cũng là sở trường của anh với nhiều chủ đề như chiến tranh cách mạng, lịch sử, lễ hội, sinh hoạt làng quê, phong cảnh... Trong loạt tranh về đề tài chiến tranh cách mạng, anh làm mọi người ngạc nhiên về cách nhìn mới lạ mà không kém phần sâu sắc qua những tranh về cuộc chiến tranh tàn khốc ở quê hương anh, nơi mà số lượng bom đạn của Mỹ dội xuống cao gấp 5 lần dân số. Tác phẩm Lòng đất sinh tồn (Sơn mài. 120X180) là một trong những tác phẩm cho thấy người hoạ sĩ khi yêu tha thiết quê hương thì họ vẽ xúc cảm và thuyết phục đến nhường nào. Anh vẽ về những người lính, người dân cầm súng, họ sống chiến đấu trong lòng địa đạo Vịnh Mốc hùng tráng trong một xúc cảm nhân văn và tư duy kỹ càng, chắt lọc hình tượng của anh. Tác phẩm của anh về chiến tranh cách mạng không tả sâu bom rơi, đạn nổ, khói lửa mịt mù như thông lệ mà sao ta vẫn nhìn thấy những người lính phủ đầy khói súng, anh nhấn mạnh về sức sống can trường, sự chịu đựng của con người trước bom đạn của kẻ thù, biểu tượng tinh thần yêu nước và niềm lạc quan của người dân, người lính trong cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước. Một dạng tranh khác phản ánh về người lính, tình quân dân nhẹ nhàng hơn của anh cũng được chú ý và đem lại cho Trịnh Hoàng Tân những giải thưởng đáng kể như Biên cương ngày mới (Sơn mài. 120X180), Lính đảo (Sơn dầu 122X122), anh cảm nhận về đề tài chiến tranh cách mạng, về người lính và những hy sinh của họ theo cách của mình một cách trân trọng, nhẹ nhàng, sâu lắng như chính là anh là người trong cuộc, vì thế anh truyền cho người xem cả tinh thần nhân văn bên trong của những hình tượng nghệ thuật mà anh yêu mến...
02/03/2022 lúc 08:55
N
hà báo, nhà văn Phan Quang thuộc thế hệ đàn anh của tôi cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề. Khi tôi mới là học sinh những năm đầu trung học cơ sở khi ông đã là biên tập viên báo Cứu quốc Liên khu IV, rồi phóng viên báo này ở các mặt trận Bình Trị Thiên, Thượng Lào, có quan hệ rộng với các nhà chính trị, nhà văn hóa ở vùng tự do Bắc miền Trung. Phan Quang không có điều kiện học lên cao, nhưng nhờ đam mê sự nghiệp báo chí, văn chương, đi nhiều, hiểu rộng, tinh thông tiếng Pháp đã tạo cho ông một phông văn hóa tổng quát (culture generale) và một phương pháp sáng tạo khoa học. Hơn 60 năm cầm bút, sự nghiệp báo chí, văn học của Phan Quang thật đồ sộ với 40 đầu sách, với tuyển tập 3 cuốn (1999) và nay là tuyển tập 10 năm () mà tôi đang có trong tay. Đó là chưa kể thì giờ vật chất cho công tác quản lý (ủy viên Bộ biên tập báo Nhân Dân), Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam nhiều khóa, Thứ trưởng bộ Thông tin, Tổng giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam, đại biểu quốc hội ba khóa và là Phó chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của quốc Hội). Có thể nói, ít có nhà văn, nhà báo, nhà khoa học nào mà có sự kết hợp hài hòa giữa công tác quản lý và công tác chuyên môn. Cái trước bổ sung cho cái sau về chỗ đứng, cách nhìn; còn cái sau làm phong phú cho cái trước về tầm nhìn văn hóa, tố chất nhân văn trong ứng xử. Một số người cứ thiên kiến nghĩ rằng, công tác quản lý sẽ làm thui chột công tác chuyên môn. Ý kiến đó là sai lầm, chí ít là trường hợp Phan Quang.
Có nhiều chuyện để bàn về Tuyển tập của một nhà báo lớn, một nhà văn thành danh với gần 1000 trang sách có khối lượng thông tin lớn, kiến thức uyên bác nhiều bài có tính học thuật cao, tính thực tiễn ngồn ngộn (có thể dùng làm tài liệu giảng dạy ở các báo chí Học viện báo chí và tuyên truyền…), người viết dù có “chắc tay” cũng khó truyền đạt cho hết ý đẹp, lời hay của Tuyển tập. Vì vậy, trong bài viết này tôi xin nêu hai nội dung tâm đắc, sở đắc.
I. Chất lý luận, học thuật trong một số tiểu luận
Điều đọng lại sâu đậm nhất trong tôi là bài: Tư duy và phong cách báo chí Hồ Chí Minh. Bài viết không dài, nhưng tác giả đã nói đủ những điều cần nói mà Bác Hồ thường căn dặn báo giới: tính chiến đấu, tính nhân dân, vai trò chiến sĩ của nhà báo. Ý mới của bài viết là tác giả đã tiếp cận đối tượng từ góc nhìn văn hóa: “Báo chí vừa là một bộ phận cấu thành văn hóa, vừa là phương tiện xây dựng, truyền bá và thực thi văn hóa ( tr.660 ). Quan điểm báo chí của Hồ Chí Minh là tự do tư tưởng; văn phong báo chí phải giản dị, dễ hiểu phổ thông, hoạt bát, nhưng không có nghĩa là phàm tục, tự nhiên chủ nghĩa, thích thì tô hồng, không thích thì bôi đen. Nhà báo phải “viết cho văn chương, cho người đọc thấy hay, thấy văn chương mới thích đọc”. Hồ Chí Minh là người kế thừa V.I.Lênin và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác trên bình diện báo chí kiểu mới, mà nội dung có liên quan đến bài viết này là tính văn hóa. Trong thời kỳ tân kinh tế ở Nga, một câu hỏi đặt ra bức thiết đối với chính quyền Xô Viết được Lênin đặt câu hỏi: “chúng ta thiếu gì ? - và trả lời: tính văn hóa, sự hiểu biết tri thức quản lý…”. Vậy tính văn hóa trong báo chí nằm ở đâu ? đó là quá trình dân chủ hóa, tự do hóa đối với toàn dân. Tri thức trên báo chí là cội nguồn của tự do báo chí. Ngày nay báo chí là nơi hội tụ một khối lượng khổng lồ tri thức, thông tin trôi nổi trên nhiều phương tiện truyền thông kể cả internet đang làm giàu trí tuệ loài người, trực tiếp tham gia và sản xuất xã hội. Nếu định hướng đúng thì ngay cả “sự thật thấp hèn”, “sự thật màu xám” cũng có giá trị phản biện hơn “sự giả dối cao thượng” như những hiện tượng thổi phồng thành tích trong một số ngành, đánh tráo việc chuyển giao đất nông nghiệp cho sân Golf với mục đích vụ lợi, ý đồ các dự án biến công viên Thống Nhất thành một kiểu Disneyland hoặc trung tâm thương mại hàng chục tầng tại công viên Tuổi trẻ ở Hà Nội đã bị hủy bỏ, do thiếu ý thức văn hóa.
Nhân hội thảo về Ngô Tất Tố, Phan Quang có bài Nghề báo nghiệp văn nói về mối quan hệ giữa văn học và báo chí với những kiến giải thuyết phục. Văn học triết luận hơn báo chí, nhưng báo lại lô gích hơn văn học. Dù là người sinh trước, kẻ đẻ sau, nhưng đều là anh em một nguồn cội. Cái này bổ sung cho cái kia, trong cái này có cái kia. Phần lớn các nhà văn trước khi thành danh đều đã làm báo hoặc là nhà báo chuyên nghiệp. Ông chê một số nhà báo “dường như mãi mê săn nguồn tin trực tuyến trên internet để chuyển vội đến người đọc mà xao nhãng… trau dồi chủ nghĩa…”. Bài báo mà thiếu chất văn, tệ hơn là văn vẻ lủng củng thì không chỉ gây phiền hà cho người đọc, mà còn làm hỏng tiếng mẹ đẻ. Dự báo của ông về quá tr×nh tích hợp giữa văn học và báo chí trong xu thế toàn cầu hóa là có cơ sở (tr.659). Trong các bài Con người và tâm linh, Về ý chí và tính cách Việt Nam, Cuộc bút chiến về Nho giáo, Nhân tài nhìn từ hai phía, Tài năng và nhân cách, Văn hóa của người làm báo v.v… tuy cách đặt vấn đề khác nhau, ý tưởng không giống nhau, nhưng cùng xuất phát điểm: tầm nhìn văn hóa. Trong bài đầu tiên, Phan Quang luận giải mối quan hệ giữa thế quyền và tôn giáo theo quan điểm duy vật lịch sử. Người cách mạng theo thuyết vô thần, nhưng tôn trọng quyền tâm linh của mỗi cá nhân, theo tôn giáo, tín ngưỡng hay không theo. Bởi đó là quyền dân chủ được ghi trong Hiến pháp. Đọc bài này, tôi liên tưởng tới những kiến giải của M.Gorki bàn về chúa Trời. Trên thực tế việc tôn vinh hay chống chúa Trời gắn liền với điềuthiện và cái ác. Giả sử chúa Trời là biểu tượng của điều thiện thì hà cớ gì mà chống; đàng này chúa Trời chỉ là cái thiện của những kẻ cũng cố quyền lực của mình. Bài báo có một số thông tin thú vị về cải cách Thiên chúa giáo. Ngày nay Chúa không còn là “đấng toàn năng nữa”, điều đó cho phép cộng đồng Vaticăng II ( 1962 - 1965 ) ban hành một số quy định mới để phù hợp với thực tiễn mới: giữa đạo với đời, giữa đạo pháp với dân tộc, để các đạo hữu vừa kính chúa vừa yêu nước. Đọc Cuộc bút chiến về Nho giáo 1930 giữa hai bậc thức giả: Trần Trọng Kim và Phan Khôi, người đọc hôm nay rút ra được bài học về văn hóa tranh luận. Quan điểm của họ đối lập nhau, sở đắc, cá tính rất khác nhau, nhưng cả hai đều nói năng lịch thiệp, gọi nhau bằng tiên sinh khi tranh luận, thẳng thắn phê bình những điều chưa phải; vừa công nhận những ưu điểm của người, vừa dũng cảm nhận cái sai của mình mà điểm qui tâm là nhờ ý thức dân tộc vì tương lai nền quốc văn quốc ngữ dân tộc...
02/03/2022 lúc 08:55
T
hơ, thường vậy, muôn đời nay vẫn chứa trong nó hoạ và nhạc. Màu sắc và âm điệu góp phần làm nên thơ, qua sự sáng tạo nhào trộn có ý thức hoặc vô thức của người cầm bút. Tuy nhiên, những cái được gọi là nhạc là hoạ trong thơ ấy đã được cảm xúc hoá và mang dấu ấn riêng của tác giả. Hiện thực có thể chỉ là một nhưng sự cảm nhận suy ngẫm về nó là muôn vàn, là đa thanh, đa sắc, đa điệu. Cát Miên chọn cho mình một cách gọi khác về màu, vượt qua những xanh đỏ tím vàng lục lam chàm tím là em; màu em,có gì đó khác thường chăng?
Chưa phải! Đoàn Phú Tứ đã có Màu thời gian, Màu thời gian không xanh / Màu thời gian tím ngắt và sau này Tế Hanh khi đứng ở bờ bắc sông Bến Hải, bên cầu Hiền Lương thời đất nước chia đôi đã thổn thức Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị...Màu em của Cát Miên, cách gọi ấy không lạ, không khác, không phải là sự sáng tạo đầu tiên, chỉ là học các bậc thi bá đi trước mà thôi.
Cái sự khác mang dấu ấn Cát Miên là ở chỗ, nữ tác giả này hình như muốn màu hoá những tâm trạng, những cảm xúc, những suy ngẫm về cuộc sống của mình. Màu em, đấy là màu xanh của cây cỏ, thiên nhiên trong sự biết ơn đất đai nguồn mạch Tổ quốc, quê nhà:
Em khoác lên mình màu xanh
Nghe mầm non bật từ lòng đất
Mạch nguồn tràn lên tán cây
Phố xanh - Em xanh
(Màu em)
Những câu thơ hiền lành, dung dị nhưng đằm lắng, thắm thiết những màu xanh tươi tắn hiện hiển khắp nơi. Xanh cây, xanh phố, xanh em…màu xanh ấy chính là cuộc sống, thiên nhiên con người chan hoà gần gũi thân thiết bên nhau. Một tình cảm bao la dành cho quê hương đất nước. Từ màu xanh được sinh ra từ mạch nguồn đất đai đó, không ít lần ta gặp gỡ hình ảnh quê hương thân thuộc trong thơ Cát Miên.
Quê nghèo, cát trắng gió Lào, lam lũ. Bao kiếp người đi qua trên vùng đất khắc bạc, nắng lửa mưa dầm, một thời chiến tranh tàn khốc. Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời vẫn không đủ hạt lúa củ khoai nuôi người. Thế hệ @ không phải không có người cảm nhận rất sâu nỗi truân chuyên nhọc nhằn của quê hương mình như Cát Miên:
Cha vác cày ra đồng
Mùa níu trũng bước chân
Từng đường cày cha lật
Chôn chặt hơi thở sâu
Mẹ gánh mùa rao bán
Thập thững bước thấp cao
Con mang mùa ra phố
Xua đi chút ồn ào.
(Đêm chuyển mùa)
Quê ấy, Quảng Trị ấy, cũng là một phần xanh trong màu yêu thương vô bờ bến của Cát Miên. Vùng đất này tôi đã từng sống, từng bươn chải, từng lăn lốc, từng la đà với gia đình, bè bạn, đồng đội nên khi đọc những câu thơ này của Cát Miên lòng rưng rưng quá:...
02/03/2022 lúc 08:55
T
rong hành trình tìm hiểu, khám phá bản thân dường như con người chưa bao giờ thoả mãn những gì đã có. Thể hiện sự trăn trở, day dứt, băn khoăn đó, tiểu thuyết chiến tranh sau thời kỳ đổi mới đã có ý thức đi sâu vào thế giới nội tâm để khai vỡ chiều sâu tâm linh nhằm nhận diện con người đích thực: “Các cây bút từ sau thời kỳ đổi mới đã đi sâu vào thế giới nội tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhằm nhận diện hình ảnh con người đích thực. Sự xuất hiện con người tâm linh biểu hiện sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học” (Nguyễn Minh Châu). Với quan niệm nghệ thuật mới, tiểu thuyết chiến tranh đương đại dần thoát ra khỏi kiểu “phản ánh hiện thực” một cách “thông tục” như trước kia. Vì thế, nó đã trở thành một mảng hiện thực đặc sắc trong quan niệm về hiện thực của một số nhà văn hôm nay như Bảo Ninh, Chu Lai, Trung Trung Đỉnh, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Trí Huân...
Hiện nay, có rất nhiều ý kiến khác nhau về “tâm linh”. Theo Từ điển tiếng Việt: “Tâm linh là khả năng đoán trước những điều sắp xảy ra theo quan niệm duy tâm”. Nguyễn Đăng Dung trong cuốn Văn hoá tâm linh cho rằng: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong tín ngưỡng tôn giáo”. Và một số tác giả nghiên cứu khác cho rằng tâm linh “thường được hiểu như đời sống tinh thần đầy bí ẩn của con người, đối lập với ý thức kiểu lý tính thuần tuý. Nó bao gồm cái phi lí tính, cái tiềm thức, vô thức, bản năng thiên phú có thể nhấn mạnh phần trực cảm, linh cảm, những khả năng bí ẩn” (nhưng vẫn có ý thức của con người). Nhìn chung, các ý kiến trên điều giống nhau ở chỗ coi tâm linh là một thế giới mở với những biểu hiện đa dạng của nó, là một tầng văn hoá trong đời sống tinh thần của con người. Nó tham gia kiến tạo ý thức ngầm và có thể là vô thức. Nhưng thường tâm linh gắn liền với những tín ngưỡng, những niềm tin vào lực lượng siêu hình cùng các quan hệ bí ẩn của con người, những sức mạnh thuộc về “trực giác”, “linh giác”, những khả năng kỳ lạ mà cho đến nay vẫn là điều khó lý giải của con người.
Trước hết, thế giới tâm linh được thể hiện qua những trạng thái bất thường của nhân vật. Đó là những người lính từng sống sót lại qua hai cuộc chiến, họ bị khủng hoảng, bất an về tinh thần nên khiến họ không thể giữ nổi trạng thái tâm lý bình thường, và họ đã hướng về quá khứ như Quy (Chim én bay), Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng), Ông Dần (Góc tăm tối cuối cùng), Kiên (Nỗi buồn chiến tranh)... Với họ, quá khứ luôn là cõi thiêng liêng, được hòa trộn bằng máu, nước mắt, hạnh phúc, khổ đau và bằng cả những kỷ niệm yêu thương. Quá khứ ấy luôn gọi họ tìm về, không phải để ru mình trong tháp ngà của những vinh quang, chiến thắng, mà để chiêm nghiệm, để dằn vặt, trăn trở về cuộc sống, lẽ đời. Bởi, với họ cái còn lại trong hiện tại không đủ để đem lại niềm vui, hạnh phúc, thanh bình cho những người lính đã từng “trở về từ cõi chết”. Và vì thế, người lính luôn sống với những gì đã mất bằng đời sống tâm linh. Kiên (Nỗi buồn chiến tranh) trở về sau cuộc chiến, phần nhiều chỉ sống bằng kí ức, tâm hồn “bị chấn thương” do “hội chứng chiến tranh” nên anh đã không thể tìm thấy được “phép an trú trong hiện tại”. Kiên không thể “sống tỉnh thức trong từng giây phút, biết quý trọng trong từng giây phút của đời sống” (Nhất Hạnh). Chiến tranh đâu phải chỉ gói gọn trong nguyên nhân - diễn biến - kết quả, mà nó còn gắn với bao mảnh đời, bao số phận, là tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc, nỗi buồn... tất cả bị đưa ra để thử thách, nếm trải. Ký ức chưa xa, nó luôn ám ảnh, vò xé tâm hồn Kiên: “Cuộc đời tôi kì thực có khác nào con thuyền bơi ngược về dòng sông không ngừng bị đẩy lùi về dĩ vãng. Đối với tôi tương lai nằm lại phía sau kia rồi... những tấm thảm bi kịch quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinh thần cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay”. Sống với thế giới tâm linh, cuộc đời anh cứ trĩu nặng một nỗi buồn đau, cứ lầm lũi tiến vào thế giới bên trong không tài nào thoát ra được!. Trạng thái tinh thần của Kiên bị khủng hoảng một cách trầm trọng, ứ đọng một cảm giác “buồn nôn” khi phải đối diện với cuộc sống hiện tại. Kiên không thể hiểu nổi tại sao mình lại có thể sống sót qua cuộc chiến tranh tưởng như không có cơ hội thoát chết. Với Kiên có lẽ là một thiên mệnh nào đó: “Cũng vì mang trong mình một thiên mệnh huyền cơ nào đấy mà anh có thể sống sót qua cuộc chiến tranh với hoàn cảnh mà bình thường ra không thể có cơ hội thoát chết”. Vì vậy, Kiên chỉ còn cách rút vào thế giới tâm linh, sống với quá khứ.
Trong Ăn mày dĩ vãng, thế giới tâm linh trở thành nơi “trú ngụ” cho những người lính trở về với cuộc sống thời bình. Cũng như Kiên, Hai Hùng “không nguôi hướng về dĩ vãng”. Anh chưa kịp chuẩn bị tâm thế sống cho hòa bình, thì lại bị hút theo tiếng gọi bi thương, da diết của quá khứ nên tâm hồn phải “nương” vào cõi tâm linh. Bởi với anh chỉ sống trong cõi ấy anh mới lắng nghe được mọi tiếng nói vang lên trong cõi lòng mình. Đó là tiếng oán thương, trách móc, mỉa mai... của đồng đội anh vang lên từ những nấm mồ ngoài nghĩa địa. Đó là sự oán trách của Viên, sự lên án nặng nề của Bảo, sự an ủi của Khiển, và cả sự thương hại của những vong hồn đã khuất khi trông thấy dáng vẻ tiều tụy của anh... Hoá ra cái cõi tưởng như mông lung, chập chờn, hư huyền ấy lại nói được bao điều đang ngày đêm giày vò trái tim những người lính khi được sống sót trên sự hi sinh của đồng đội mình.
Chính nỗi đau, mất mát đã khiến cho tâm hồn những người lính chìm sâu vào cõi vô thức, tâm linh, và không thể trở lại với chính mình trong hiện tại. Lát cắt của nỗi đau, cô đơn khiến họ tin vào những điều siêu hình, thần bí. Họ nhìn thấy có một cõi khác ngoài cõi hữu hạn, bởi ở đó có sự tương thông, thấu hiểu, thần giao cách cảm giữa con người với con người. Lạc vào thế giới tâm linh là cách đào thoát mà ở đó họ tìm thấy sự trú ngụ và an ủi...
02/03/2022 lúc 08:55
C
àng gần đến ngày đại lễ 30/4, dù muốn hay không, dù đầu óc có bị phân tâm bởi muôn vàn công việc thì có lẽ mỗi một người dân nước Việt đều không thể không nghĩ đến cái sự kiện được coi là cột mốc lịch sử có tầm vóc bậc nhất trên dặm dài trường chinh hàng ngàn năm của dân tộc với biết bao vinh quang và cay đắng, bao hào hùng và bi thương. Mỗi người nghĩ về nó theo một cách, tuỳ theo tâm thế, điều kiện lịch sử của cá nhân, những hồi ức, kỉ niệm riêng hoặc theo những xu hướng đổi thay của cả thời đại. Bất luận suy tư về nó thế nào thì tất cả đều phải thừa nhận có một ngày thật sự trọng đại đã xẩy ra trong lịch sử Việt Nam, đã làm xoay chuyển hoàn toàn một đất nước để mở ra một kỉ nguyên mới cho một Quốc gia có tên: Việt Nam.
Lịch sử loài người được diễn đạt bằng lịch sử của từng Quốc gia, từng dân tộc. Mỗi Quốc gia hình thành theo mỗi cách, có nơi là sự phân chia quyền lợi những miền đất chiếm đoạt được của những đoàn người khai phá, có nơi bằng sự lớn mạnh tự thân của các bộ tộc bản địa, có nơi bằng những cuốc chinh chiến trường kỳ chống lại sự chiếm đoạt. Nhiều quốc gia ra đời bằng những cuộc Cách mạng đòi độc lập. Tuy nhiên tính khách quan của lịch sử cho thấy, dù được hình thành theo phương thức nào, kể cả những phương thức được gọi là “khai sáng văn minh” thì sự ra đời, bảo tồn và phát triển của một dân tộc, một Quốc gia không thể không gắn liền với máu xương của người chiến sĩ. Đặc biệt là ở những thời điểm có tính bước ngoặt của lịch sử kiểu như ngày 30 / 4 / 1975 của Việt Nam
Khái niệm về người chiến sĩ trong phạm trù Cách mạng cần hiểu đầy đủ là những người đã tham gia trực tiếp tạo nên thắng lợi của một dân tộc, một quốc gia. Đó không chỉ đơn thuần là người lính vũ trang mà chúng ta vẫn quen gọi là Bộ đội. Người chiến sĩ làm nên sự nghiệp chiến thắng huy hoàng của cuộc chiến tranh giải phóng đất nước ta là tất cả những ai đã quên mình vì công cuộc đánh đuổi ngoại xâm, từ người lính đến vị Tổng chỉ huy, từ người dân chân đất đến nhà lãnh đạo cao nhất, từ anh bộ đội đến các lực lượng bán vũ trang và triệu triệu người yêu nước khác.. Bởi thế mới có thuật ngữ khoa học quân sự là cuộc chiến tranh nhân dân.
Tuy nhiên nói như vậy chúng ta không thể không đặt đúng tầm vóc vai trò chủ lực của những người chiến sĩ quân đội trong các cuộc chiến đấu cụ thể. Và trong khi ghi chép lịch sử, tôn vinh những chiến công hay tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, cần căn cứ hiện thực khách quan của lịch sử cụ thể của giai đoạn đó, của địa điểm xẩy ra sự kiện đó để tôn vinh xứng đáng vai trò có tính quyết định của sự kiện lịch sử đó. Đã từng có quan niệm cho rằng, bất luận nơi đâu, chiến công nào cũng là chiến công chung của dân tộc, là thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân, vì vậy hình tượng tôn vinh chiến công bất luận đâu cũng phải toàn diện, đầy đủ. Tôi không phản đối quan niệm mọi thắng lợi đều là thắng lợi chung của dân tộc, cho dù trận đánh cụ thể đó chỉ duy nhất có một lực lượng bộ đội thì cũng không thể không có công sức của những người mẹ, người vợ ở hậu phương..Tuy nhiên, đó là sự tôn vinh chung. Giả sử có một tượng đài Chiến thắng Quốc gia thì có lẽ cũng nên tính toán cho hết mọi nhẽ kiểu như thế. Nhưng ở một thời điểm cụ thể, một trận đánh cụ thể, một di tích cụ thể thì không thể tư duy bằng thứ quan điểm chung như thế được. Từ suy nghĩ đó tôi muốn nhân dịp tháng tư lịch sử này mà nói thêm về nội dung tôn tạo di tích Thành Cổ Quảng Trị, nói rõ thêm những day dứt của mình về hình ảnh người chiến sĩ cần được tôn vinh như thế nào ở không gian di tích đặc biệt quan trọng đó.
Thành Cổ Quảng Trị trở thành di tích Văn hoá- Lịch sử cấp Quôc gia với hai giá trị tiêu biểu. Giá trị văn hoá là dấu tích của toà hành chính tỉnh lị được xây dựng thời nhà Nguyễn. Tuy nhiên, cái di sản vô giá của di tích này khiến cả dân tộc và bạn bè trên thế giới ngưỡng mộ lại là cuộc chiến đấu bi hùng 81 ngày đêm của quân đội chúng ta chống cuộc phản kích tái chiếm của quân Mỹ. Không phải đến tận bây giờ thế giới mới biết đến sự tích này mà ngay khi cuộc chiến đang xẩy ra thì giữa Thủ đô ánh sáng của nước Pháp, những bên tham gia đàm phán ngừng chiến và dư luận quốc tế cũng từng giờ từng phút hướng về Thành Cổ. Nó căng thẳng đến mức một nước văn minh như Hoa Kỳ mà cũng phải dùng đến hạ sách là nói dối bằng việc đắp thành giả, cắm cờ để đưa hình ảnh " tái chiếm" trên Thành Cổ loan về Pa-ri với hy vọng tạo sức ép trong đàm phán. Để tạo thế cho cuộc đàm phán bốn bên ở Pa-ri, suốt 81 ngày đêm, bộ đội ta đã trộn máu xương mình đắp nên thành luỹ Quảng Trị. 81 ngày đêm đã có xấp xỉ 81 đại đội hy sinh. Các nhà viết sử đời sau có thể sẽ tiếp tục đặt câu hỏi về giá trị đong đếm được của sự hy sinh đó. Nhưng chắc chắn bất luận thế nào thì lịch sử vẫn phải tôn vinh những người chiến sĩ đã ngã xuống giữa mảnh đất nhỏ nhoi nơi miền trung hẻo lánh này để thế cuộc toàn cục của cuộc chiến được khai thông và đã khiến kẻ thù lớn nhất thời đại phải nản lòng...
02/03/2022 lúc 08:55
K
inh Thi của Trung Quốc và Ca Dao của người Việt đều là những tác phẩm văn học dân gian. Kinh thi có 305 bài, Ca Dao Việt Nam là cả nghìn bài. Cả hai đều được người đời sau san định lại và cố định hoá bằng văn bản. Giữa Ca Dao người Việt và Kinh Thi của Trung Quốc có nhiều nét tương đồng và dị biệt, thử đưa một ví dụ đơn giản mà ai cũng có thể dễ dàng nhận ra một nét khu biệt giữa chúng là: Kinh Thi thường được làm bằng thơ 4 câu, 4 chữ; còn Ca Dao của ngừơi Việt lại được làm bằng thể lục bát; còn một điều tương đồng là ca dao người Việt và Kinh thi của Trung Quốc đều có một địa vị quan trọng trong đời sống tinh thần, trong lòng quần chúng đông đảo của hai nước. Ở đây chúng tôi chỉ giới hạn bài viết trong phạm vi cụ thể: đi tìm một số nét tương đồng và dị biệt nơi hình tượng nhân vật người phụ nữ trong Kinh Thi của người Trung Quốc và trong Ca Dao người Việt. Với quan niệm: trong tác phẩm tự sự hình tượng nhân vật là nơi thể hiện tập trung lý tưởng đạo đức thẩm mỹ của tác giả, là cái tác động đến người đọc trên ba mặt: nội dung nghệ thuật, trình độ và hiệu lực của sáng tạo nghệ thuật ngôn từ. Ở đây chúng tôi nghĩ rằng vẫn có một sự rào đón trước sau. Khi chúng tôi gọi Ca Dao là loại tác phẩm tự sự mà trước nay theo quan niệm chung của nhiều người thì Ca Dao - Dân Ca là thuộc loại hình trữ tình dân gian mà trữ tình và tự sự hai khái niệm này được các tác giả trong Từ điển thuật ngữ văn học phân định một cách rạch ròi. Thế nhưng đi sâu vào khảo sát Ca Dao Dân Ca. Chúng tôi thấy Ca Dao Dân Ca là thể loại dung chứa trong đó nhiều điều phức tạp. Trong ca dao dân ca ta thấy có sự tham gia của những yếu tố tự sự và trữ tình đậm đặc và sự tham gia của những yếu tố tự sự lại chiếm một vai trò rất quan trọng trong việc kiến tạo bài Ca Dao, trong việc phản ánh cái tôi trữ tình những yếu tố trữ tình nhiều khi được bắt rễ từ cái nền tự sự. Nhiều bài Ca Dao có thật đầy đủ những đặc trưng tính chất của loại hình tự sự mà các tác giả trong Từ điển thuật ngữ văn học đã nêu. Ví dụ như bài: “Sáng ngày mai em đi hái dâu”, có đầy đủ yếu tố của một câu truyện: từ cốt truyện nhân vật, sự đối thoại giữa nhân vật. Nói như thế để thấy rằng trong ca dao yếu tố tự sự trữ tình xen hoà quyện lẫn nhau khó có một cái nhìn tuyệt đối để phân định. Nên chăng đã đến lúc chúng ta cũng cần phải nhìn nhận những yếu tố tự sự trong Ca Dao - một loại trữ tình dân gian như ta hằng quan niệm. Lẽ dĩ nhiên nếu chúng ta chấp nhận sự có mặt của tự sự trong Ca Dao, hoặc là xem ca dao cũng là một tác phẩm tự sự, thì khái niệm tự sự này, có ít, nhiều sự khác với những quan niệm về tự sự trong văn học viết.
Đặt Ca Dao người Việt và Kinh Thi trong cùng một hệ thống, nhìn hình tượng người phụ nữ theo cái nhìn loại hình (types) chúng ta sẽ thấy nét tương đồng đầu tiên giữa hai hình tượng người phụ nữ, đó là những người phụ nữ này đều là những người đẹp, tràn trề sức sống, đều muốn phô vẻ thanh xuân của mình ra.
Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em sắc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
Người con gái trong Ca Dao Việt Nam xuất hiện với một vẻ đẹp thật hoàn mỹ, với làn da trắng con mắt sắc, cái miệng cười rất xinh, thêm vào đó lại còn rất khéo tay thể hiện ở chi tiết biết vấn khăn. Và đây là người phụ nữ trong Kinh Thi.
Hữu nữ đồng xa
Nhan như thuấn hoa
Tương ngao tương tường
Bội ngọc quỳnh cư
Bỉ mỹ Mạnh Khương
Tuân mỹ thả đô
(Hữu nữ đồng xa - Trịnh Phong 9)
Dịch nghĩa: Có người con gái ngồi chung xe với mình dung nhan đẹp đẽ như hoa cây Thuấn, sắp sửa ngao du, thì nàng đeo ngọc cư. Nàng Mạnh Khương đẹp đẽ kia, thật là đẹp đẽ lại nhàn nhã....
02/03/2022 lúc 08:55
T
rong bài Nhàn đàm viết về hoa ngũ sắc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ghi lại cảm xúc mình trước ngày bỏ phố lên rừng gần bốn mươi năm trước."Chào bầy hoa ngũ sắc ven đường, Cười sặc sỡ bên khung trời thơ ấu". Bài viết nhắc đến cuộc gặp gỡ với Kiều Thái ở Kim Long - người bạn gái thời sinh viên, sau này là giáo sư Triết học tại Đại học Munich. Sau lần gặp nhau năm 1965, hai người bạn một người lên rừng cầm súng, một người ra nước ngoài du học, hơn hai mươi năm sau mới gặp lại.
Trước ngày lên rừng, anh Tường là giáo sư dạy triết tại trường Quốc học Huế. Giáo sư Trung học thời ấy là một chức danh danh giá, có mức lương gấp hai viên chức thông thường. Vì vậy việc anh dứt áo ra đi không xuất phát từ bất mãn danh phận hay bức xúc về cơm áo, mà từ một khát vọng mang màu sắc lý tưởng.
Khi lên rừng, anh mới chỉ có thơ. Khởi đầu là những tâm sự của người thầy giáo, trong đối thoại tâm tư với học trò: "Đọc sử xưa, em hỏi,/ Lúc nước non lâm nguy,/Có phải chăng Nguyễn Trãi,/Xếp bút nghiên ra đi?" Người giáo sư trẻ tuổi của trường Quốc Học ngày ấy, người đọc rất nhiều thi thư của văn hóa đông tây, có lẽ đã làm theo sự thôi thúc của câu thơ Đuờng về trai thời loạn: "Ninh vi bách phu trưởng - Thắng tác nhất thư sinh" (Hoàng Phủ Ngọc Tường dịch và "update" câu thơ với giọng hóm hỉnh cố hữu của anh: "Thà làm đội trưởng của một trăm thanh niên xung phong hơn làm một anh chàng sinh viên mọt sách"). Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ khởi điểm cuộc đời, bị chi phối rất mạnh mẽ bởi ý niệm "Kẻ Sĩ" mà anh đã mang trong tâm khảm từ ảnh hưởng phong hóa Nho học của đất Huế, nơi anh lớn lên và trưởng thành.
Sau này, anh viết nhiều về các danh nhân: Nguyễn Trãi, Đặng Huy Trứ, Đào Duy Từ... Tôi ngờ rằng danh nhân để lại ảnh hưởng sâu đậm nhất trên cuộc đời và hành trạng của anh chính là Nguyễn Công Trứ, với ý tưởng tích cực về công danh "Đã mang tiếng đứng trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông." Anh rất trọng chữ Danh "Chỉ có người chuộng hư danh mới đáng chê, còn người hiếu danh làm nên cái tên mình bằng cả một quá trình lao động lâu dài thì đáng nể". Cụ Nguyễn Công Trứ đã đề cao vai trò Kẻ sĩ "Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt / Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên". Bởi vậy trong đời anh Tường, lúc nào anh cũng muốn dấn bước lên trước, ý thức về người trí thức đi tiên phong luôn dẫn dắt những lựa chọn lớn của anh.
Xuất thân là học sinh rồi giáo sư Quốc học, anh được đào tạo thực sự cơ bản về học vấn; Cái vốn học vấn rất uyên thâm đó, đặc biệt là sự am tường về triết Tây và triết Đông, đã giúp anh đi vào cuộc sống với những phân tích, mổ xẻ đầy sáng tạo, điều mà nhiều nhà văn bây giờ không làm được vì thiếu sự tích lũy những kiến thức công cụ.
Mặt khác, nếu không có khoảng thời gian lặn lội trên Trường Sơn hay gắn bó với tuyến lửa Vĩnh Linh thì anh sẽ thiếu hẳn một mảng vốn sống rộng lớn và chắc chắn sau 1975 anh không cầm bút viết sớm như vậy (những tác giả miền Nam cùng xuất phát trong phong trào đấu tranh ở đô thị với anh, như Trần Duy Phiên và các tác giả khác trong nhóm Việt, phải đến hơn mươi năm sau mới trở lại văn đàn). Nếu như thế, có thể ta đã không có một Hoàng Phủ Ngọc Tường với gia tài tác phẩm phong phú như hiện nay.
Một nhà nghiên cứu văn học ở Pháp, anh Đặng Tiến, đã nhận định rằng văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường là sản phẩm của chiến tranh cách mạng, bởi thời kỳ ở miền Nam, anh hầu như không viết gì, tất cả tác phẩm đều ra đời sau khi anh thoát ly.
Nhận xét đó có phần đúng. Tuy vậy, năm1975, sau mười năm lên rừng rồi ra Bắc, khi quay về Huế, anh mới chỉ có thơ và một tập ký đầu tay (Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, 1972). (Anh rời Huế từ 1965 cho đến 1975 mới trở về, không có mặt trong mùa xuân 1968 như nhiều người đã hiểu lầm, do vô tình hay cố ý). Thời gian từ 75 trở đi, anh mới chuyên tâm sáng tác liên tục và được định danh là một nhà văn chuyên viết ký, sau lời nhận xét rất nặng cân của Nguyễn Tuân: "Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa. Ai đã đặt tên cho dòng sông - viết về sông Hương,Ngọn núi ảo ảnh - viết về núi Bạch Mã, và nhiều bút ký về văn hóa, lịch sử, thiên nhiên và con người xứ Huế, cùng với những tác phẩm được tập hợp trong 15 cuốn sách đã làm cho anh trở thành một tác gia kinh điển về thể loại ký trong văn học Việt Nam.
Vìvậy theo tôi, văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường là sản phẩm của thời kỳ đất nước thống nhất, với cảm hứng chủ đạo từ tâm thức người nghệ sĩ trong ba mươi năm qua: hàn gắn dân tộc và đổi mới xã hội.”
Hoàn cảnh xuất thân và quá trình sống làm cho anh, dù muốn dù không, đã thực sự là một cầu nối hiệu quả nhất giữa giới trí thức từ hai miền Nam Bắc, giữa người cầm bút trong nước với trí thức hải ngoại. Những năm từ bảy lăm cho đến trước khi anh bị tai biến não năm 1998, căn hộ anh ở là nơi gặp gỡ của anh em văn bút trong nước, ngoài nước khi qua Huế....
02/03/2022 lúc 08:55
M
ột niềm vui mới đến với bạn bè đầu năm mới, Thanh Tịnh Đông Hưng, một Blogger trong hội Blogs Quảng Trị đã trình làng tập thơ đầu tay " Cầu vồng cõng những cơn mưa ". Tập thơ gồm 51 bài với gần 100 trang do nhà xuất bản Giao thông vận tải ấn hành. Tôi may mắn là người đọc sớm nhất nên niềm vui, niềm xúc động ngấm dần trong cảm thức triền miên trước những trang thơ đằm thắm dung dị vừa ảo vừa thực của một tâm hồn tươi trẻ.
Vâng! Tôi quen Thanh Tịnh khá lâu và chỉ biết anh là một doanh nhân lãng tử thích ngao du đây đó chứ chưa hề biết anh là người làm thơ! Tình cờ vào mạng, tôi thấy một Blogger mang tên Thanh Tịnh Đông Hưng và khuôn mặt dễ thương của anh mà vui mừng đến ứa nước mắt! Trời ơi! Thanh Tịnh đây rồi, mấy bài thơ đầu tay lên trang không dấu được tiếng quê chân chất mà gần gũi mang phong vị đồng quê chiêm trũng, mảnh đất nuôi anh thành người.
Từ bấy đến nay, tên anh thường xuyên có mặt trên trang Blogs sôi nổi nhất, thơ anh càng viết càng hay, càng thuyết phục bạn đọc!
Thanh Tịnh có một tâm hồn đa cảm thiết tha tình đời, tình em và quê hương đồng chua nước mặn.
Trông mưa - nắng đốt mắt vàng
Lúa vừa ngậm chẹn lụt tràn đồng sâu
Mảnh mai thân gái dãi dầu
Ngực tròn chấm nước phèn nâu nhặt mùa
(Em gái đồng chiêm trũng)
Ai có về miền chiêm trũng mới thấy xót xa cho dân quê lặn ngụp trong biển nước để vớt lên những hạt vàng trĩu nặng mồ hôi. Chính anh, đứa con quê dãi dầu sương nắng mới cảm được cái gian lao cơ cực của người quê!
Viết về mẹ, thấm trong anh với từng con chữ, chân tình mà sâu nặng, giản dị mà có sức ngân bởi anh biết chấm phá hình ảnh cô đặc ơn tình cho mảnh đời thương khó nuôi con:
Mẹ là cha đũa lẻ cong oằn
Nứt nẻ khô cằn tiếng ầu ơ
Kết sợi thương đau tơ lòng xây tổ
Bên ráo con nằm mái dột mẹ nghiêng
(Mẹ)
Suy nghiệm cuộc đời bằng thiện tâm để nuôi dưỡng cái cội nguồn cuộc sống,Thanh Tịnh tôn thờ chữ Tâm bằng cuộc sống thường ngày nên anh thanh thản bước đi trong xồ bồ cuộc sống thực tại. Anh là doanh nhân nhưng công việc kinh doanh đối với anh chỉ là phương tiện để vươn tới cái cao đẹp của cuộc sống thanh tao bằng những cảm xúc thăng hoa trong một tâm hồn hướng thiện. Trên đường đời tấp nập, anh giật mình tịnh tâm khi nghe vọng tiếng chuông ngân kéo anh về với cõi thiền:...
02/03/2022 lúc 08:55
C
âu đối chiếm một vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam. Câu đối là một hình thức sinh hoạt độc đáo, tao nhã của người Việt. Câu đối là nghệ thuật chơi chữ, thể hiện tài năng, trí tuệ thông minh, sắc sảo, khí phách và tình cảm, thái độ trước một con người, một sự việc hoặc một cảnh vật, một đối tượng nào đó mà tác giả quan tâm chú ý đến. Đề tài câu đối cũng khá phong phú và đa dạng nhưng thường tập trung vào: Xuân Tết vui mừng, mừng hỉ sự, ghi công, tang ma, châm biếm; câu đối danh lam, di tích... Trong đó, câu đối xuân vẫn được xem là một nét văn hoá truyền thống trong đời sống sinh hoạt của người Việt.
Về mặt thể loại, hiện nay có rất nhiều cách phân chia. Nếu dựa vào cách làm, người ta phân câu đối thành ba loại: Câu đối sách (lấy chữ hoặc nghĩa trong sách mà đối); Câu đối tức cảnh (thấy cảnh gì thì làm câu đối về cảnh ấy); Câu đối chiết tự (“bẻ chữ” ra mà đối, chữ ở đây là chữ Hán bao gồm cả hình nét và nội dung ý nghĩa của câu chữ). Dựa vào cách tổ chức ngôn từ, câu đối được phân chia thành: Câu tiểu đối (câu đối nhỏ, mỗi vế từ ba đến sáu tiếng), câu đối thơ (câu đối đặt theo lối thơ thất ngôn), câu đối phú (câu đối làm theo thể phú)... Nguyên tắc quan trọng nhất của câu đối là tính đối ngẫu. Hai vế trong câu đối phải cân bằng với nhau từ số lượng từ, thanh âm đến ý nghĩa.
Câu đối bất luận ngắn hay dài, chữ Nôm hay chữ Hán, hoặc nửa Nôm nửa Hán điều cốt ở sự mới mẻ, sâu sắc về nội dung và hoàn thiện độc đáo về hình thức.
Câu đối có từ lâu đời, có nguồn gốc ở bên Tàu. Người Tàu xem câu đối là một thứ “đặc sản văn hoá thượng hạng”, và họ quan niệm: Nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa, thì câu đối tinh hoa của tinh hoa. Câu đối có tên gọi xưa là Đào phù - vốn có nghĩa gốc từ tấm ván (phù) bằng gỗ đào được treo trước cửa để xua đuổi ma quỷ. Theo sách “Tống sử - Thục thế gia” thì câu đối đầu tiên chính chúa nước Thục là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959, câu đối như sau: “Tân niên khai dư khánh/ Giai tiết hạ trường xuân” (Năm mới bày tiệc lớn/ Tiết đẹp mừng xuân dài). Trần Hậu Chủ có một câu đối được xem là chuẩn mực mà các bậc túc nho lấy đó là chuẩn mực là: “Nhật nguyệt quang thiên đức / Sơn hà tráng đế cư” (Nhật nguyệt sáng đức trời / Núi sông ân (vua) nhuần thấm).
Câu đối được du nhập vào nước ta từ rất sớm, lúc đó cùng với sự bành trướng về phương Nam thì văn hoá Trung Hoa đã hoà nhập với văn hoá phương Nam của người Việt cổ và đã trở thành một thành tố văn hoá của dân tộc Việt. Từ lúc nào không hay, câu đối đã trở thành món ăn tinh thần truyền thống của người Việt, một thú chơi tao nhã, phù hợp với nhiều trường hợp, hoàn cảnh và sinh hoạt xã hội khác nhau.
Ngày xuân, nhâm nhi chén rượu, viết đôi câu đối cũng là một cái thú của người Việt ta. Những câu đối bằng mực Tàu giấy đỏ bên cạnh các loại tranh Đông Hồ đã tạo nên quang cảnh ngày Tết. Ngày xưa, Tết đến xuân về trong mỗi gia đình dù có thiếu thốn gì nhưng “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ / Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh” (Trần Tế Xương) là không thể thiếu. Đây là nét đặc trưng đã có từ lâu đời trong những ngày Tết cổ truyền của người Việt. Những ngày giáp Tết ở những phiên chợ, những phố đông người thường có những ông đồ bày viết thuê:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
(Vũ Đình Liên)
Câu đối Tết thường là câu đối đỏ. Theo quan niệm dân gian, màu đỏ vốn được coi là màu rực rỡ nhất, là biểu tượng của sức sống mãnh liệt. Màu đỏ vừa nổi trội vừa hài hoà với màu xanh của bánh chưng, màu vàng của hoa mai... làm không gian sáng tươi, tạo cảm giác ấm áp trong ngày xuân mới.
Trước hết, tôi xin mở đầu bằng một gia thoại về câu đối: Ngày xuân, có hai ông đồ cùng ngồi nhắm rượu. Ông đồ thôn Đông gắp một miếng chả nhai tóp tép rồi tung ra một vế đối: Chả ngon. Ông đồ thôn Đoài cũng đang bí vì cái từ “chả” hai nghĩa ấy, thì may nắm thay từ gầm gường một con Cóc nhảy ra, miệng cũng nhai tóp tép, ông liền đối ngay: Cóc sướng. “Cóc” đối với “Chả” thật tuyệt vời vì nó cũng mang hai nghĩa như vậy. Ông thôn Đông vờ cắn phải cái lưỡi kêu lên:...
02/03/2022 lúc 08:55
L
ê Thị Bích Nồng tuy cũng là người Vĩnh Giang, nhưng không phải là người làng Tùng để mà tự hào với câu vè truyền tụng: “Văn chương Xuân Mỹ, lý sự Thuỷ Khê, Làm thuê Cẩm Phổ...chèo cạn làng Tùng...”. Bà người thôn Cổ Trai Đông, sát bên làng Tùng Luật. Cũng là một làng quê đơn sơ mà xinh đẹp nằm cuối dòng Bến Hải mang vị mặn của biển. Cha mẹ của bà đều là những người đam mê ca hát, họ hò hát đối đáp với nhau mà nên vợ nên chồng.
Thời chống Pháp, Bích Nồng - một cô bé mới mười hai tuổi là đội viên đội truyền tin của xã. Học đến lớp 7 thì nghĩ học vì mẹ ốm, phải ở nhà trông em và giúp đỡ việc nhà. Hoà bình lập lại, đất nước chia đôi. Những năm chưa khoá tuyến (1954 - 1956) Bích Nồng trong đội văn nghệ xã Vĩnh Giang thường theo đàn chị Châu Loan biểu diễn trên sông phục vụ đồng bào bờ Nam và làm công tác địch vận. Năm 1960, bà tham gia Đội văn nghệ công an vũ trang Vĩnh Linh (D.41) biểu diễn phục vụ cho các chiến sĩ và đồng bào từ Vịnh Mốc lên đến Giàng Phao, Hói Cụ. Trong lòng dân vẫn còn lưu giữ hình ảnh những người nghệ sĩ đã một thời đồng cam cộng khổ, đem tiếng hát phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng.
Năm 1967, Bích Nồng chuyển sang làm chiến sĩ của “Đội tuyên truyền văn hoá Trung đoàn 270” bảo vệ giới tuyến (Người dân thường gọi là Đoàn văn công Khu đội Vĩnh Linh). Với giọng hò trời phú, trong trẻo, ngân rung như giọng của Châu Loan, những buổi đi làm địch vận, giọng hò của Bích Nồng đã góp phần cảm hoá tâm hồn những người lính bên kia chiến tuyến. Theo lão nghệ nhân Ái Chủng - nguyên phó trưởng Đoàn văn công khu đội: “Nếu gọi loa đọc chủ trương đương lối thì địch bắn pháo dữ dội để át đi tiếng tuyên truyền. Nhưng khi Bích Nồng cất lên giọng hò: Bước tới Hiền Lương sao chặn đường nghẹn lại / Đáo tới bờ Bến Hải sao gác mái tình duyên...ơ...hờ... thì bọn địch im re để mà nghe”.
Đoàn văn công Khu đội Vĩnh Linh có nhiều lần vượt sông sang bờ Nam phục vụ đồng bào ở Trung Giang và các chiến sĩ tiểu đoàn 47. Tết Mậu Thân 1968, Bích Nồng và đồng đội suýt chết tại bến đò Xuân Mỵ khi máy bay của giặc thả bom tới tấp, ngăn chặn bộ đội ta vận chuyển đạn vào Nam. Rồi những buổi biểu diễn trên chiến hào, phục vụ chiến sĩ trước giờ xuất kích. Những buổi biểu diễn không có ánh sáng nhưng cháy bỏng niềm tin và ấm áp tình đồng đội. Thời ấy, đi Cồn Cỏ tính mạng như treo đầu sợi tóc. Thế mà Bích Nồng đã vượt bom, vượt đạn, hai lần cùng đồng đội ra phục vụ các chiến sĩ giữ đảo. Bà là một trong những người đầu tiên của Trung đoàn 270 được kết nạp vào Đảng. Tuổi xuân của bà trôi đi trong khói lửa chiến tranh, để rồi lan truyền một câu vè của đoàn lính trẻ: “Vĩnh Giang có chị Bích Nồng, hai mươi tám tuổi chưa chồng vẫn vui”.
Tháng 4 năm 1969, tại Tân Kỳ (Nghệ An) đã tổ chức hội diễn văn nghệ quần chúng toàn Quân khu 4. Đang ở trạm 66, Bích Nồng được tuyển chọn vào đoàn nghệ thuật tổng hợp của quân khu ra Hà Nội phục vụ đồng bào và chiến sĩ Thủ đô. Và chuyến đi này đã để lại cho bà một kỷ niệm sâu sắc,, một niềm vinh hạnh lớn lao của đời nghệ sĩ.
Mới diễn được hơn mười đêm, trên có lệnh chọn năm diễn viên gồm Minh Huệ (văn công Quân khu 4), Mai Tư (Đội tuyên truyền văn hoá Nghệ An), Tuấn Mỹ (Đội tuyên truyền văn hoá Hà Tĩnh), Minh Lý (Đội tuyên truyên văn hoá Quảng Bình) và Bích Nồng (Đội tuyên truyền văn hoá Vĩnh Linh) luyện tập một số tiết mục dân ca để phục vụ khách trung ương. Năm chị em rối rít chuẩn bị. Vừa mừng vừa lo. Không biết sẽ được hát phục vụ cho vị khách nào. Chiều 7/5/1969, khi Thủ đô vừa lên đèn, một chiếc xe con đến đón năm chị em và đưa tới Phủ chủ tịch. Đồng chí Vũ Kỳ ra đón và bảo rằng: “Tối nay Bác cho phép năm cháu thay mặt cho lực lượng văn nghệ tuyến lửa Quân khu 4 vào thăm và hát cho Bác nghe một số làn điệu dân ca quê hương”. Ôi, cả năm người tưởng như trong mơ. Điều ao ước đến quá bất ngờ. Nhưng khi gặp Bác, cả năm cô gái đều bật khóc, vì thấy Bác sức khoẻ đã yếu mà đất nước đang ở vào những ngày cam go nhất. Bác cười hiền từ, ân cần hỏi han từng cháu. Nghe Bích Nồng kể chuyện Vĩnh Linh, gương chiến đấu và hy sinh của quân dân đôi bờ Bắc Nam sông Bến Hải, Bác xúc động rơi nước mắt. Thấy vậy, sợ Bác mệt, Bích Nồng không dám kể nữa, và hò cho Bác nghe một làn điệu ru con:
“À ơi... ru em, em ngủ cho ngoan
Để mẹ đi chợ bán rau bán chè”.
Vừa dứt câu hò, Bác nói ngay: “Cháu Nồng hò chưa đúng. Hồi nhỏ ở Huế, Bác đã nghe các mẹ, các chị ngân những chỗ ư ư ư dài chứ không ngắn như cháu đã hò. Và lời câu hò ấy là : Ru tam, tam théc cho muồi / để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu / mua vôi chợ Quán chợ Cầu / mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh”. Người âu yến nhìn khắp lượt năm chị em và dặn: Hát dân ca khi gặp những bài bản cổ không nên pha trộn từ cũ với từ mới, phải hát đúng tiếng địa phương, từ nước phải hát là nác, ruộng phải gọi là roọng như thế mới thấy được cái hay, cái vốn cổ dân ca của dân tộc.
Những tưởng niềm hạnh phúc ấy chỉ đến được một lần thì chiều ngày 17/5/1969 cả năm cô gái của Quân khu 4 lại được Bác cho gọi và thăm và chúc thọ nhân ngày sinh lần thứ 79 của Người. Hôm ấy, Bác rất vui. Bác hỏi Bích Nồng chuyện bà con Vĩnh Linh bom đạn ác liệt rứa có sản xuất được không, có còn ăn cơm bữa diếp nữa không; rồi chuyện tiếp tế cho bộ đội đảo Cồn Cỏ... Nghe Bích Nồng thưa chuyện bà con Vĩnh Linh đã thoát cảnh cơm “bữa diếp”, đã có cơm, khoai, sắn ăn no; và bộ đội đảo Cồn Cỏ vâng lời Bác đã bắn hạ nhiều máy bay giặc Mỹ. Nghe thế, Bác vui lắm. Bác chúc quân dân Vĩnh Linh sản xuất, chiến đấu tốt để “năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”....
02/03/2022 lúc 08:55
G
ần 40 năm kể từ thủa tập tọng cầm bút cho đến nay tôi chưa hề viết một dòng có tính chất lý luận hay phê bình văn học, hoặc một cái gì đại loại thế. Lí do rất đơn giản. Tôi quan niệm, ngọn gió và cánh buồm có hai chức phận khác nhau. Gặp gió thuận chiều thì buồm lướt nhanh hơn. Còn lỡ như gặp khi không thuận, việc của buồm không phải là cản gió mà phải biết tự trở tay lèo để vượt lên.
Tuy nhiên gần đây tôi cảm thấy cách nghĩ đơn giản ấy của mình đã không còn ổn. Từ ngày đất nước mở cửa hội nhập, quá nhiều luồng gió thổi vào tạo nên những cơn lốc xoáy, có lúc gần như hỗn loạn. Liệu những người sáng tác có còn đủ bản lĩnh để xoay xở tay chèo?
Nếu như thế kỉ trước hai tiếng Độc lập là mục tiêu khát vọng cháy bỏng nhất của cả dân tộc, thì những năm tháng này Đổi mới lại trở thành nỗi niềm canh cánh, giục giã tất cả mọi con người, mọi công việc, mọi lĩnh vực.
Người sáng tạo văn học càng sốt ruột hơn. Bởi bản thân công việc sáng tạo tự nó muôn thủa đã hàm chứa nỗi khát khao đổi mới. Không một người cầm bút nào, kể cả những người đã gần đất xa trời mà lại thủ tiêu ước mơ đổi mới. Không nhà văn nào lại nói rằng mình muốn viết một cái giống như cái đã có của mình hoặc của người khác. Nhà sáng tác nào khi ngồi vào bàn cũng tràn đầy ý chí muốn viết một cái gì đó khác hẳn cái hôm qua, khác hẳn mọi người, không lặp lại bất cứ ai. Đương nhiên có làm được như thế không lại là chuyện khác.
Người làm lí luận phê bình cũng có khát vọng như vậy. Tôi chắc thế.
Nhưng tại sao có vẻ cả hai phía lại không hiểu được nhau? Tại sao một số nhà lí luận cứ nhất quyết quy cho một số đông các nhà văn là không chịu đổi mới. Tệ hơn, khi thấy các tác phẩm ra đời không tuân theo cái định hướng mà nhà lí luận đang o bế thì lập tức họ sổ toẹt? Có người đã kết luận xanh rờn : Các nhà văn Việt Nam không hề biết viết tiểu thuyết!
Tôi thật sự giật mình trước lời kết án đanh thép ấy, và cũng vì vậy mà cố lần dò theo từng trang viết của các nhà lí luận ấy để xem xem theo họ thì viết tiểu thuyết phải thế nào. Cuối cùng cũng ngã té ngửa ra. Có nhà đưa ra “khuôn mẫu”, tiểu thuyết hiện đại không cần đến chân dung nhân vật mà phải như ông Jon hay bà Jep ( thủa trước là ông ốp, ông ép), chỉ cần khái niệm nhân vật là X hay Y gì đó... Có nhà còn kêu lên khắc khoải: tại sao bao nhiêu tác phẩm hiện đại thế giới đã được dịch mà các nhà văn không chịu đọc, không chịu cách tân, tại sao lại cứ cặm cụi kể chuyện …Có nhà đưa ra “môtíp” nội dung của văn học Việt Nam ngày nay phải là một cuộc sống vô nghĩa, một xã hội vô hồn, một cảm giác phi lí…Có nhà tụng ca một vài truyện ngắn của một nhà văn coi đó như là vệt khai sáng của văn chương đổi mới, rằng phải đạp đổ tảng đá truyền thống, xé toang mọi ràng buộc tổ tiên, phải ghê tởm cái gọi là bản sắc và đạo lí dân tộc .
Phạm vi bài viết này tôi chưa tranh luận trực tiếp chuyện đúng sai của những luận điểm ấy. Tôi chỉ muốn hỏi các nhà kia rằng, tại sao trong lúc gào thét kêu gọi người sáng tác phải đổi mới, không được lặp lại cái cũ, thì các nhà lí luận ấy lại mang những “trường phái” “chủ nghĩa” đã cũ rích của thế giới ra làm bài giảng định hướng? Tất cả những hình mẫu nói ở trên chẳng phải đã thấy ở Jang-pon-sac, ở Cap-kaz, và nhiều bậc hiện sinh của một thời xa xăm rồi sao? Ngay cả cái gọi là hậu hiện đại, tân hình thức cũng là chuyện thế giới có từ nhiều thập kỉ trước. Tôi chưa hề có thái độ chê bai, phủ định các trào lưu đó. Nhưng tại sao Văn học Việt Nam hôm nay cứ phải nhặng lên vì những thứ ấy? Những nhà hiện sinh chủ nghĩa rất vĩ đại. Những phát kiến của họ có giá trị nhất định trong thời đại họ sống. Thì cũng như chủ nghĩa hiện thực XHCN đó thôi. Cái gì cũng có yếu tố lịch sử.
Ai quyết định cho phép sự tồn tại hay cần phải thải loại các phát minh vĩ đại ấy. Chắc chắn không phải là ý chí của một nhóm người mà chính là trí khôn của số đông người tiêu thụ sản phẩm. Cộng đồng các quốc gia và loài người trên toàn thế giới đủ bình tĩnh để nhận mặt cái gì là có ích lâu dài, cái gì buộc phải trở thành rác thải....
02/03/2022 lúc 08:55
C
ó một câu Kiều không dùng đến điển tích, không cần phải chú giải mà ai cũng dễ dàng hiểu được, đó là câu: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Nhưng không phải câu Kiều tưởng dễ dàng hiểu được này hoàn toàn được hiểu đúng thần thái thâm hậu của nó trong bất kỳ mọi nơi, mọi lúc, trong những dịp “lẩy Kiều”. Những người có “chữ tâm” đích thực trong đời này không phải là ít và hết thảy họ đều yêu mến, nâng niu câu Kiều nhân nghĩa lung linh này. Nhưng những người nhân danh “chữ tâm” lại cũng không phải là ít và đôi khi “chữ tâm” nhân danh này bị đem đối lập với chữ tài. Và như thế chữ tài lại bị dè bỉu, bị đố kỵ. Và như thế hai chữ “tâm, tài” tương đố. Ngày xưa, khi viết Truyện Kiều để chứng minh cho thuyết “tài mệnh tương đố” (“Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”), Nguyễn Du đã không ngờ đến cái tình cảnh “tâm, tài tương đố” này.
Thực ra, đại thi hào Nguyễn Du chỉ đem chữ tài đối lập với chữ mệnh chứ chưa hề đem chữ tài đối lập với chữ tâm bao giờ cả. Không đối lập hai chữ “tâm-tài” nhưng lại bảo: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, “rắc rối” chữ nghĩa là ở chỗ đó. Chẳng lẽ Nguyễn Du viết đến 3254 câu thần bút để ca ngợi một trang tuyệt thế về Tài-Tình-Sắc như Thuý Kiều mà lại đi dè bỉu “chữ tài” chăng? Hoàn toàn không, chữ tài trong cách hiểu của Nguyễn Du cũng như của cổ nhân là đã bao hàm cả chữ tâm, chữ đức ở trong đó nữa. Chả thế mà cha ông ta đã từng quý trọng, nâng niu hai chữ “hiền tài” và chính người tài là bậc hiền nhân ở đời cho nên phải “chiêu hiền đãi sĩ” (trong câu thành ngữ này thì chữ hiền chính là chữ tài, hai chữ từ chỗ gắn kết nhau đã trở nên đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa). Thuý Kiều, nhân vật chính của Truyện Kiều mà Nguyễn Du đã thác ngụ trọn vẹn tư tưởng nghệ thuật tuyệt diệu của mình, Thuý Kiều, về nhiều mặt lại chính là một phiên bản đắt giá về “cái tôi” của Nguyễn Du, nhân vật ấy có đủ hai chữ tâm, tài gắn kết nhau (thực ra, hai chữ tâm, tài trong hình tượng nghệ thuật Thuý Kiều là không thể chia cắt nhau được, có chia cắt là chia cắt tương đối theo lô gích hình thức thôi chứ không chia cắt được trong lô gích nghệ thuật và trong “phép biện chứng” của Nguyễn Du). Bảo chứng cho phẩm hạnh Thuý Kiều quả không có gì đáng giá hơn lời khen, lời đánh giá của các vị cao tăng. Sư Giác Duyên khen:
“Người sao hiếu nghĩa đủ đường
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi”
Sư Tam Hợp đạo cô khen cả hai chữ tài, chữ tình gắn kết nhau trong con người Thuý Kiều:
“Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong”
hoặc:
“Lấy tình thâm trả nghĩa thâm
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời”
Không riêng gì các vị sư đạo cao đức dày mà ngay cả đến những kẻ thù của Thuý Kiều, những kẻ từng đày đoạ, hành hạ Thuý Kiều đến độ vùi hoa, dập liễu không xót tay, những kẻ ấy không những không dè bỉu mà còn vô cùng nể trọng một Thuý Kiều tài tình quá đỗi. Hoạn Thư nhiều lần khen ngợi cái tài của Thuý Kiều giá đáng nghìn vàng:...
Hiện tại
26°
Mưa
12/12
25° - 27°
Mưa
13/12
24° - 26°
Mưa
14/12
23° - 26°
Mưa