Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 26/04/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Bút ký

Phóng sự ảnh

Biết đến khi nào mưa rơi

11/07/2023 lúc 08:57






G





ần hết tháng ba đã nghe mùi khát cháy. Những chùm hoa phượng vĩ kéo những ngày hè bỏng rát về trên quê hương mình. Không phải vô vớ mà giấc mơ đêm hôm qua trườn về khiến người tôi vã mồ hôi, cổ họng khát cháy, mắt dựng đứng nhìn những đoàn người đi cùng với xô, chậu trên tay. Những âm thanh loãng xoãng phát ra từ những vật dụng dùng để múc nước quyện vào cái nắng hanh hao cùng với tiếng chim hét kêu trong chiều hè khản đặc.
Họ bước xuống trên một con sông gần như cạn nguồn. Mùa thiếu nước của người dân quê tôi sắp đến...
Tôi sinh ra ở làng, lớn lên học ở trường làng. Sau những ngày lận đận tôi tìm được một công việc ở thành phố. Nhưng nhà tôi vẫn ở làng. Đêm đêm, tôi trở về làng nghe lá khô cựa mình lần cuối trước khi bứt ra khỏi cành. Cuộc sống quẩn quanh đâu đó đối với chiếc lá, đối với thân phận con người trên những nẻo đường của người dân quê tôi.
Quê tôi giàu... gió Lào, cát trắng! Chợt nhớ câu thơ của một ai đó mà tôi bất chợt không nhớ tên. Chỉ nghe lòng xót khi nghe mấy câu...

Giấy vẫn bay

11/07/2023 lúc 08:57

 1. Chú Huyên người cùng làng với tôi. Học xong đại học Văn thì chú đi bộ đội. Loanh quanh thế nào thành phóng viên một tờ báo danh tiếng ở Thủ đô. Được đâu dăm năm thì chú bị thu hồi Thẻ nhà báo và bị đuổi khỏi cơ quan. Nghe bảo chú có những hành vi, phát ngôn đi ngược tôn chỉ mục đích của tờ báo chú đang phụng sự. Thời gian ấy, vợ chú đã kịp bỏ chú theo một gã làm phim truyền hình. Gã này có nhiều tiền đang xây dựng nhà hàng, khách sạn bên sông Hồng. Chú gom mấy bộ áo quần và một số sách bỏ vào hai cái hòm gỗ, hai túi vải rồi rong một mạch về quê. Bố chú chăm chăm nhìn chú xếp sách lên bàn, nét mặt buồn buồn. Ông là người trầm lặng, đa cảm. Đang dạy học ông bỏ, xin nghỉ hưu trước tuổi. Người thân hỏi vì sao thì ông nói, nghề bạc, gắn bó thế đủ rồi. Xếp xong sách vở, chú Huyên đứng cúi đầu trước bố, lí nhí nói, con có lỗi. Người bố không đả động gì tới chuyện chú bị đuổi mà nói, anh mang về nhiều sách quá, nhiều quá. Chú Huyên ngửng đầu. Rồi chú nói, sướng nhờ sách, khổ vì sách. Ông bố thủng thẳng nói, có mấy thời cái chữ đổi được cái ăn. 
Ở nhà đầy năm, chú Huyên rủ rê mấy thanh niên thất học, thất nghiệp trong làng lập một nhóm thợ nề rồi kéo nhau lên Thành phố.
Năm ấy tôi học lớp mười hai. Nhưng rồi thi hỏng đại học. Cha tôi nghiêm mặt nói, mày làm văn nghị luận theo sách thằng Huyên, hỏng là phải. Tôi chán đến độ không biết vì sao mà mình hỏng nữa. Chú Huyên gặp riêng tôi bảo, Đại học văn chẳng để làm gì, đi theo tao. Mấy ngày sau, tôi lên thành phố chạy việc vặt cho nhóm thợ nề do chú làm cai...

Hạ sĩ

11/07/2023 lúc 08:57






Ô





ng Bường chết đứng vào hôm tôi từ Hà Nội về quê. Cả xóm nhốn nháo. Nào có ốm lâu la gì đâu. Đùng cái là đi. Ông Bường khỏe vào loại nhất làng tôi từ xưa. Mẹ tôi bảo ông ấy cảm có hai hôm. Cảm một cái là cấm khẩu ngay, may mà đang phơi lúa ở nhà. Đám ma ông Bường đơn sơ quá. Tôi chạnh lòng xót xa cho ông. Nhà tôi đỉnh đồi bên này nhà ông dưới chân đồi bên kia cách nhau hai trăm mét. Kèn đám ma não nuột. Tiếng than kèn sầu thảm đêm ấy cứ vọng nỉ non các triền đồi xóm tôi. Năm ấy mẹ tôi còn sống, bà làm chi hội người cao tuổi thôn tất bật lo tiếp khách trầu nước cho nhà đám cả đêm ở dưới nhà ông Bường. Tôi khó ngủ quá.
Khi còn bé, tôi phải đi chăn trâu sớm lắm. Bố tôi bảo cho đi theo ông Bường để nó dạn dĩ hơn. Ông cho tôi cưỡi trâu còn ông đi bộ bên cạnh dắt trâu nhà ông. Ông chỉ cho tôi cách trèo lên lưng trâu, cách đằm cho trâu, cách gỡ đỉa trong kẻ móng. Nghĩ lại kiến thức chăn trâu của tôi, hiểu con trâu của tôi bắt đầu từ ông Bường. Ông là thầy dạy tôi vào nghề mục đồng chất đầy kỉ niệm đến tận bây giờ. Ông gọi tôi là thằng cu. Chả bao giờ gọi tên tôi là Luân sất. Ông bảo thằng cu mày học sáng là nhà có phúc đấy. Học sáng như mày có mà mấy mẫu chè cũng chẳng bằng. Nói rồi ông nhủ thằng cu gãi lưng cho bác rồi bác đi đuổi trâu cho.
Nhà ông nghèo. Khỏe và làm cứ hùng hục mà vẫn nghèo. Cứ lao lên rừng bóc măng nứa, đào măng vầu, kiếm mây kiếm vỏ khoai ăn trầu đến phiên chợ gánh è cổ ra chợ chỉ đủ tiền lọ mắm tôm và hai cút rượu. Ông nội tôi bảo: Bố Bường mày cổ cầy vai bừa quá. “Thứ nhất sơn tràng thứ nhì vác vã” chả nứt mắt ra được đâu. Ông Bường cười hề hề, số con nó thế cụ ạ. Số cái con khỉ làm gì cũng có đường đi nước bước mới nên được. Ông Bường dạ, con biết ạ. Nhưng rồi ông vẫn nghèo. Bà vợ ông bé lon chon chỉ giỏi mỗi một nghề lên rừng đào củ hà thủ ô đem bán. Thuốc nam đấy mà rẻ như bèo. Hai vợ chồng cả đời đầu đâm vào đít chổng ra khắp vùng rừng quê tôi mà nghèo vẫn hoàn nghèo. Ấy thế nhưng chưa bao giờ thấy ông ca thán xin xỏ láng giềng cái gì. Bố tôi quí ông lắm. Có hôm nào đánh được mẻ cá ngon nướng cháy lên cho thằng em tôi gọi ông lên uống chén rượu. Ông uống im thin thít. Uống nhiều chỉ thở dài rồi bảo bố tôi. Cậu ạ, tôi lo cho con Xuân nhà tôi lắm, học lớp sáu thì chả theo được nữa bây giờ theo đít trâu, lại chả được khá gái như con nhà người ta nay mai thì… Bố tôi ngắt lời: Bác cứ lo xa, nó chăm ngoan thế để em đưa nó vào ban chỉ huy đội sản xuất rồi nó khắc khôn ra. Ông nghèn nghẹn được thế thì quí quá…

Về nơi nuôi dưỡng tâm hồn

11/07/2023 lúc 08:57






K





hông có thì giờ đi xa, thành ra cả tháng nay tôi cứ như gà mắc tóc. Hôm thì vào cầu Lai Phước ngược lên Tân Vĩnh; hôm từ Vịnh Phước xuôi theo con sông Thạch Hãn qua các phường Đông Lương, Đông Lễ; hôm thì ở phía hữu ngạn con sông Hiếu với Phường 1, 2, 3 - các  phường trung tâm Tp. Đông Hà; hôm qua tả ngạn, đến với các làng mạc thuộc phường Đông Thanh...  Cũng chỉ loay hoay với các làng xóm phường xã ven đô để xem sau nhiều năm sáp nhập vào thị xã tỉnh lỵ rồi thành phố, thực sự người nông dân nhận được cái gì trong đô thị hoá.
Cái được, quả là người nông dân được rất nhiều thứ. Cái nghề nông, có cơ giới hoá, được cung ứng hạt giống, con giống rồi phân bón, thuỷ lợi tưới tiêu... nên tăng được năng suất mà sức lao động thì được giải phóng. Đã qua rồi cái thời tự cung tự cấp, chạy ăn từng bữa. Mấy thập niên trở lại đây người nông dân không còn ai phải lam lũ nặng nhọc, không còn ai phải trục lúa, giã gạo, gồng gánh, một nắng hai sương nữa. Chính phủ xoá đói giảm nghèo, họ tự xoá đói giảm nghèo, nông dân giàu lên rất đáng kể. Được giải phóng tay chân đồng nghĩa đầu óc cũng được giải phóng. Tư duy người nông dân bây giờ thay đổi nhiều lắm. Tâm lý tiêu dùng của người nông dân cũng hoàn toàn biến đổi. Chính họ chứ không ai khác đã tạo ra thị trường ngay ở nông thôn, trong ma chay, đám hỏi, đám cưới và bữa cơm trên bàn ăn của mỗi gia đình. Họ nhàn nhã hơn, vì thế có điều kiện hơn,có thời gian hơn tham gia vào việc hưởng thụ văn hoá. Nhiều cái hay của thuần phong mỹ tục được họ phục hồi; nhiều cái lạc hậu, cái dỡ họ bỏ qua... 

Cồn Cỏ trong mắt họa sĩ Quảng Trị

11/07/2023 lúc 08:57







V





ào những ngày tháng năm lịch sử của đất nước, chúng tôi có dịp trở lại huyện đảo với một trại sáng tác Mỹ thuật của các họa sĩ tỉnh nhà để chuẩn bị tham dự triển lãm khu vực Bắc miền Trung lần thứ XVI tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An tháng 8 năm 2013.
Kế hoạch của Phân hội đã đặt ra từ đầu năm là hội viên phải có nhiều tác phẩm về biển đảo, về sinh hoạt của ngư dân và về các hoạt động gắn liền với miền sông nước trong năm nay, nên lúc chuẩn bị cho chuyến hành trình ra đảo, anh em trong phân hội rất náo nức, rất nóng lòng để sớm đến được với địa danh lịch sử này. Một địa danh đã từng hai lần được đón nhận danh hiệu anh hùng, được tặng thưởng hai huân chương Độc lập, hai huân chương Quân công, bốn huân chương Chiến công và nhiều cán bộ chiến sĩ được tặng danh hiệu anh hùng như Thái Văn A, Nguyễn Tăng Mật... trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ và đặc biệt hơn nữa, địa danh này đã được Bác Hồ gửi thư khen ngợi. 
   
Đúng hẹn như BCH Phân hội đã thông báo, 5 giờ rưỡi sáng, các họa sĩ đã tập kết ở một địa điểm tại thành phố Đông Hà, xe đã chờ sẵn để đưa đón đoàn về cảng Cửa Việt, cùng tháp tùng với đoàn, còn có Đội chiếu phim lưu động của Trung tâm Phát hành Phim và Chiếu bóng tỉnh ra phục vụ đảo nên chuyến đi khá vui, có nhiều hoạt động phong phú, bổ ích.
Chúng tôi chuyển đồ đạc, hành lý lên một con tàu khá lớn, sau khi đã ổn định được các vị trí trong khoang, đúng 7 giờ sáng tàu xuất phát, mũi tàu quay về hướng đông rồi rồ máy. Bến cảng xa dần và chúng tôi bắt đầu được lênh đênh trên biển cả. Một màu xanh bao la, trùng điệp trải ra trước mắt, những đàn cá thi thoảng bay lên hướng về phía trước như đùa giỡn, nghịch ngợm với con tàu, những lớp sóng nhấp nhô nối nhau tiến vào bờ, một vẻ đẹp không tài nào tả được, từng chấm nhỏ màu trắng ẩn hiện và lớn dần cho đến lúc lộ rõ ra những con tàu đánh cá ngoài khơi xa. Chúng tôi ôm cặp vẽ ra ngồi hai bên mạn tàu nhưng chẳng ghi chép được gì, bởi con tàu cứ chao đảo, lắc lư không theo một nhịp điệu định hình nào cả...

Hai người PaKô được đặt tên đường

11/07/2023 lúc 08:57

 






B





ây giờ, chuyện về hai người đàn ông của bản Pring thuộc xã A Dơi, huyện Hướng Hóa – Quảng Trị tự đứng ra làm hai con đường cho ô tô chạy liên xã, liên thôn có thể không còn là “tin trang nhất” nữa rồi – Cường – một “giáo viên cắm bản” rất rành… đọc báo lấp lửng với tôi như thế. Rồi anh kể về người thương binh một chân ấy đã vác đá làm đường suốt từ sáng sớm cho đến đêm khuya, rằng có lúc ông đã ngã lăn tròn cùng với đá…
Mơ… mặt trời đừng lặn
Trước mắt tôi là người thương binh chỉ còn lại một chân Hồ Mơ đang cuốc đất làm mương nước thủy lợi cho ruộng lúa bậc thang, nếu ông không tự nói tuổi 71 của mình thì thật khó mà tin. Ông khỏe khoắn, trẻ trung, tràn đầy ham muốn sống, ham muốn làm việc hơn nhiều lần so với những thanh niên ngồi quán cà phê từ sáng đến 12 giờ trưa ở thị xã tôi sống. Ông thả cuốc vào nhà đón khách với câu nói: “Bác mơ ước làm sao đừng có ban đêm, mặt trời cứ sáng hoài ri thì làm được biết bao nhiêu là việc”. Ông kể: Hồi trẻ, bác khỏe nhất vùng này, năm 1956 thì đi bộ đội, năm 1969 bị thương được đưa ra Bắc điều trị.
Đất nước thống nhất, bác nhất mực đòi về quê. Bác có nhiều chuyện lắm, chuyện tình, chuyện người… nhưng chừ chỉ nói chuyện con đường phải không? Năm 1999 bác bắt đầu khởi sự làm con đường nối từ đường 135 vào vùng rừng Re Lau, ngày nào cũng dậy từ lúc trời chưa sáng, cuốc đất vá đá san đường, cho đến khi trời tối không còn thấy đường làm nữa thì về. Suốt ba năm trời như thế. Lúc đầu chỉ một mình, về sau bà con trong bản hiểu ra cũng tham gia. Con đường dài hơn ba cây số, xe ô tô chạy được đã giúp bà con trong việc làm ăn rất nhiều, chở sắn bán cho nhà máy, phân tro, giống má để trồng cao su… tất cả đều được vận chuyển bằng ô tô hết. Nhưng mà đường tôi làm có là gì so với đường của Hồ Phúc Yên đã làm…

 

Bóng đổ trên đường đi

11/07/2023 lúc 08:57






Đ





êm thiếu trăng, sân chùa vắng lặng, tịnh không một bóng người. Chỉ có cái bóng đèn móc ở trên mái hiên hắt sáng một vùng như chiếc màn phủ chụp lấy khoảnh sân. Từ đầu hôm, sư thầy đi thăm nhà một đạo hữu trong vùng đến giờ vẫn chưa về.
Điệu Sanh bước xuống thềm hiên giỡn bóng, trò nghịch này có lần sư thầy đã khuyên điệu bỏ đi, đừng có đeo đẳng cái ám ảnh con người ta như thế. Nhưng hình như Sanh quên mất, lại vốn tính tò mò nên điệu luôn tìm cách khám phá những điều bí ẩn mà đôi khi người khác cho là vớ vẩn.
Từ trong cái quầng sáng ở sân, điệu Sanh cố đưa mắt nhìn ra vườn cây, song chẳng thấy một thân cây nào, chỉ tuyền một màn đen. Sanh đi thẳng ra vườn, khi đã chìm trong bóng tối thì điệu nhìn rõ cả những chiếc lá đang đung đưa trên cành, vài nhánh khô gẫy rơi dưới đất nữa. Lạ quá, đứng trong chỗ sáng thì không thấy gì, ra chỗ tối lại thấy được?
Điệu đem thắc thỏm này hỏi ngay khi sư thầy vừa vào đến cửa chùa. Sư thầy là một người thông tuệ, ngoài kinh kệ văn chương thầy còn giỏi cả kiến thức của các lĩnh vực khoa học tự nhiên. Rõ ràng đây là chuyện của ngành vật lý, hiện tượng đồng môi trường quang học, thầy biết căn cớ của nó. Nhưng nói chuyện vật lý với điệu Sanh chẳng khác nào bắt trẻ con mang đá vào đầu, nặng lắm! Hơn nữa, nếu như nhà thơ thi vị hóa cuộc sống, nhà văn tô vẽ cuộc đời, thì bậc tu hành có thể cảm nhận mọi hiện tượng tự nhiên thông qua một thứ lăng kính gọi là nhân sinh quan. Thầy sẽ giải thích điều đó với điệu sanh bằng cách vừa dễ hiểu mà lại thấm nhuần đạo pháp, trước nay vẫn vậy...

Nhật ký một chuyến đi

11/07/2023 lúc 08:57






V





ừa ra trường, đang trong khí thế hừng hực của sức trẻ muốn được cống hiến và thử sức nhưng thực tại lại không giống những gì tôi từng mơ mộng thời sinh viên. Việc làm là một vấn đề không chỉ khiến mình tôi mà cả người lớn cũng phải đau đầu. Tạm gác lại mọi chuyện, tôi dành thời gian cho những chuyến đi xa để thử trải nghiệm và tích góp cho mình chút kinh nghiệm thực tế mà biết đâu sẽ giúp ích cho công việc của tôi sau này.
Theo chân Câu lạc bộ Nhà báo Nữ Quảng Trị, tôi đã có một chuyến đi cực kỳ lý thú lên vùng cao, nơi biên cương của Tổ quốc giáp biên giới Việt – Lào.
Một giờ ba mươi phút một buổi chiều thứ bảy, dưới cái nóng gay gắt của nắng và gió Lào tháng sáu, chiếc xe ôtô của Báo Quảng Trị không ngần ngại vẫn ung dung chuyển bánh lên vùng cao Hướng Hóa. Xe lên đến địa phận của Đakrông, khung cảnh hai bên đường khiến ai ngang qua cũng phải đi chậm lại để ngắm nhìn. Có thể thiên nhiên ở đó vẫn vậy, hoang sơ mà hùng vĩ, nhưng đối với một người lần đầu đến đó như tôi lại cảm thấy mình thật nhỏ bé trước thiên nhiên rộng lớn. Dòng sông Đakrông chảy dài phía dưới suốt quãng đường đi với nhiều bãi đá đẹp khiến cho dòng nước uốn lượn đầy màu sắc. Cảnh thiên nhiên thật nhưng lại cứ ngỡ như những bức tranh mà tôi từng xem trong cuốn catalogue chọn lịch Tết. Nhìn dòng sông tuy không sâu nhưng nước chảy rất xiết, chợt một ý nghĩ thoáng qua rằng không biết đến mùa lũ bức tranh thiên nhiên này có trở nên dữ tợn như hung thần hay không?! Ý nghĩ đó khiến tôi thoáng rùng mình. Nhưng nghĩ đến những giai điệu rộn ràng của ca khúc “Sông Đakrông mùa xuân về” tôi bỗng thấy vui tươi trở lại...

Trỉa

11/07/2023 lúc 08:57






G





ià Xa Rê đeo a-chói nhỏ vào hông, mở rương gỗ lấy điện thoại rồi rủ tôi đi “lấy sóng”. Leo qua ngọn núi Tớc bở hơi tai, ngoái nhìn xuống bản Trỉa như một ốc đảo nhỏ phía dưới xa, với con suối Cam Lộ uốn lượn quanh, và những thửa ruộng nước mới cuốc bẫm chuẩn bị vào vụ. Già cẩn thận lấy điện thoại dò dẫm: “Đây rồi, đã lấy được sóng, đợi chủ trương của Đảng, Nhà nước vào đây rồi mang về cho bà con”. Đều đặn một tuần hai lần, già Xa Rê lại leo núi cập nhật tin tức, hoặc nhận “giấy mời” bằng tin nhắn để ra xã họp. Địa hình phức tạp nằm giữa núi rừng nên nơi đây vẫn chưa có đường, điện. Nhưng “văn minh” ở đây lại có thừa...
Lúa nước “leo” lên non
Qua con dốc dựng đứng mà người dân quen gọi là núi Tớc, bản Trỉa dường như tách biệt với thế giới bên ngoài. Trước đây, Trỉa thuộc xã Cam Sơn, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị; do giao thông cách trở và xa trung tâm xã, nên năm 1956 bản Trỉa sáp nhập vào xã Hướng Sơn, huyện Hướng Hoá. Muốn vào được bản thuận lợi phải đi vào mùa khô. Khi những con suối băng qua chặng đường gần 10km trong rừng khô cạn, là có thể men theo đường mòn để đến Trỉa...

Khói bay lên trời

11/07/2023 lúc 08:57






C





ó một trang ký sự chiến trường viết như thế này: Đúng 17 giờ ngày 6 tháng 2 năm 1968, trận tiến công cứ điểm Làng Vây bắt đầu. Pháo các cỡ của ta bắn áp chế đợt một vào căn cứ. 18 giờ, hai đại đội tăng xuất kích, Đại đội tăng lội nước PT-76 số 9 từ khu tập kết Pêsai bơi bốn kilômét theo dòng Sêpôn, 22 giờ đến tuyến điều chỉnh cuối cùng ở làng Troài cách địch 1800 mét. Ở đây có con đường địch dùng lấy cát về xây dựng cứ điểm Làng Vây nên rất tiện cho xe tăng tiếp cận và xung phong. 23 giờ 15 phút, pháo ta bắn đợt hai. Xe tăng trên cả hai hướng triển khai chiến đấu. Ở hướng chính, một xe sa xuống hố bom không kéo lên được. Vì địa hình hẹp, trung đội một triển khai lên trước dùng pháo bắn mạnh vào vị trí địch, sau năm phút đã diệt hai lô cốt. Hỏa lực chính xác của xe tăng đã yểm trợ cho bộ binh và công binh đột phá nhanh cửa mở. Xe tăng 573 trúng đạn DKZ của địch vẫn dũng cảm chiến đấu diệt thêm một số mục tiêu. Trung đội tăng hai và tăng ba tràn qua cửa mở phát triển vào bên trong đánh chiếm khu vực đại đội biệt kích 101 và 104. Hỏa lực địch ở sườn phải bất ngờ bắn mạnh vào đội hình. Trưởng xe Nguyễn Văn Thành bị thương nặng. Lái xe Phạm Văn Hương bị thương vào chân và tay phải. Hương nhờ pháo thủ số hai giúp mình kéo cần lái và đạp chân dầu tiếp tục cho xe xông lên. Ở hướng tây, xe tăng ta dùng hỏa lực chi viện cho bộ binh đánh chiếm cao điểm 320. Xe của trung đội trưởng Nguyễn Văn Tân đang vận động thì trúng đạn. Nguyễn Văn Tân bị thương nặng nhưng vẫn động viên các chiến sĩ tiếp tục bắn yểm hộ cho bộ binh xung phong. Chiếc xe dừng lâu tại chỗ trở thành mục tiêu cố định. Pháo địch dồn dập bắn tới, Tân và cả kíp xe hy sinh…

Nghĩa tình linh biên cương

11/07/2023 lúc 08:57






B





ất kể nắng mưa, khó khổ, những người lính biên phòng vẫn ngày đêm âm thầm làm nhiệm vụ. Với họ, hạnh phúc lớn nhất là được góp sức giúp biên giới bình yên, cuộc sống nhân dân no ấm.
Đâu khó có... lính biên phòng
Vừa nếm cái nóng như rang ở TP. Đông Hà, qua những vòng cua tay áo, chúng tôi đã ngấm không khí lạnh vùng cao. Ấy vậy mà mất tầm nửa giờ cuốc bộ cùng Trung tá Nguyễn Đình Hoài, Chính trị viên Đồn Biên phòng Tam Thanh về cơ sở, chiếc áo anh em đều ướt nhẹp. Bản yên bình. Đến đâu, chúng tôi cũng được tiếp đón bằng những lời chào hỏi cùng nụ cười hồn hậu. Ân cần mời khách ghé nhà, ông Hồ Văn Thương (trú tại bản A Xói, xã A Túc, huyện Hướng Hóa) bảo: “Ở đây, hễ có khách lạ ghé chơi, bà con rất thận trọng. Hôm nay, nhà báo đi cùng bộ đội biên phòng nên ai cũng cởi mở thế đấy. Dân bản xem lính biên phòng như người nhà”.
Xưa nay, người Vân Kiều, Pa kô thường chỉ tin tưởng họ hàng, thân tộc. Từ ngày lính biên phòng về bản, giúp dân bao việc nhỏ to, bà con dần thay đổi quan niệm. Thậm chí, nhiều người còn kết nghĩa, ăn thề với cán bộ, chiến sĩ áo xanh. Ngay ông Hồ Văn Thương cũng tự nhận gia đình mình “nợ ân tình” với lính biên phòng. Ông Thương kể, mới đây, ngôi nhà sàn của gia đình bị “bà hỏa” thiêu rụi. Trong khi ông ngước mắt lên trời mà than, bộ đội biên phòng Đồn Tam Thanh đã đến, ủng hộ 50kg gạo. Sau đó, họ còn giúp ông dựng lại nhà, hướng dẫn cách làm ăn. Nhờ thế, gia đình ông Thương đã qua cơn hoạn nạn. “Chắc bộ đội biên phòng thấy gia đình tôi nghiêm túc thực hiện chủ trương, chính sách nên mới tận tình giúp đỡ” – Ông Thương phân trần. Nghe vậy, Trung tá Nguyễn Đình Hoài liền giải thích: “Thực ra gia đình nào thuộc địa bàn Đồn quản lý gặp hoạn nạn, chúng tôi cũng tìm cách hỗ trợ. Riêng số gạo thì trích từ “Hũ gạo tiết kiệm của đơn vị”. Được biết, mỗi ngày, chiến sĩ nuôi quân Đồn biên phòng Tam Thanh lại để dành một phần gạo cho vào hũ. Đến nay, Đồn đã tiết kiệm được hơn 1.000 kg gạo và xuất khoảng 800 kg để cứu trợ cho nhiều gia đình ở xã Thanh, A Túc, Xy, A Xing... Cứ thế, sau mỗi đợt thiên tai, câu chuyện về “Hũ gạo tiết kiệm” của cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Tam Thanh lại được lưu truyền...

Qua rồi chuyện người không mang họ

11/07/2023 lúc 08:57






T





ừ bao đời nay, đồng bào dân tộc Vân Kiều và Pa Cô (một dân tộc anh em có phong tục tập quán và cả ngôn ngữ nhiều nét tương đồng với dân tộc Vân Kiều, cùng sống trên vùng cao miền tây Quảng Trị) vốn chỉ có tên mà không có họ, mượn nhan đề một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Xuân Đức thì dân Vân Kiều, Pa Cô là những "Người không mang họ". Rồi một ngày kia đồng bào miền núi nơi đây hết thảy đều có thêm họ, đáng nói nhất là cả muôn người đều chung một họ. Đó cũng là chuyện lạ đã xảy ra với dân tộc Vân Kiều.
VÙNG CAO MANG HỌ BÁC HỒ.
Năm 1946 từ chiến khu Bác Hồ đã cử cán bộ vào Nam thay mặt Người thăm hỏi đồng bào vùng cao Quảng Trị và gởi tặng bà con Vân Kiều, Pa Cô những tấm hình của Bác. Không những thế,Bác còn tặng áo lụa đẹp cho những người già đã sống trên chín mươi tuổi. Đồng bào Vân Kiều, Pa Cô cảm động vô vàn.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công ít lâu thì diễn ra sự kiện trọng đại: cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946. Cán bộ làm công tác bầu cử khi ghi danh cử tri đã  hỏi đồng bào vùng cao Quảng Trị họ gì? Nhiều người ngơ ngác. Từ thưở khai thiên lập địa, cha sinh mẹ đẻ ai nào có biết họ là gì, nay nghe hỏi vậy không khỏi bất ngờ và lúng túng. Bỗng có người đề nghị: đồng bào vùng cao không có họ, nay mọi người xin lấy họ của Bác Hồ làm họ của mình. Tất cả mọi người đồng thanh hưởng ứng. Từ đó, ai cũng tự hào là mình là người thân, là con cháu Bác Hồ...

Tình yêu nơi chảo lửa

11/07/2023 lúc 08:57






M





ột chiều cuối năm 1972, cô giáo Đoàn Thị Nga và Ngô Thị Nhụ đang cùng học trò say sưa với bài toán trên bục giảng, thì nhận được quyết định của Ty Giáo dục Thái Bình điều động vào Nam công tác. Sau vài ngày chuẩn bị hành trang, các cô lên đường ngay.
Sáng ấy, bên vườn hoa thị xã Thái Bình, đã có gần năm chục bạn đồng nghiệp, ngót sáu mươi giáo sinh vừa tốt nghiệp và khoảng bốn chục giáo viên Miền Nam K7 học tại Thái Bình  mãn khóa, đang chờ các cô ở đó. Đoàn xe nổ máy, theo hướng phà Tân Đệ vút đi trong tiếng đài vang ngân:
"Có những ngày vui sao, cả nước lên đường xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục. Có những ngày vui sao, cả nước lên đường xao xuyến bờ tre từng hồi vang tiếng trống…"
- Quả là rộn ràng, xao xuyến. Tiếng hát thật đúng với tiếng lòng tuổi trẻ chúng em lúc bấy giờ. - Cô giáo Nga bảo vậy. - Tuy có lúc bịn rịn chia tay với gia đình, bầu bạn lúc lên đường, nhưng tất cả đều cảm thấy náo nức, xốn xang kỳ lạ, bởi giữa thời khắc lịch sử lớn lao ngày ấy, ai cũng muốn chính mình góp được chút gì đó cho công cuộc giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Xe vượt phà Tân Đệ, rồi bỏ lại phía sau thành phố Nam Định một cách yên bình, nhưng vừa tới thị xã Phủ Lý, thì một quả bom từ trường nổ tung lên. Đất cát rào rào bắn vào thành xe. Rất may, không ai việc gì. Nhìn mấy em giáo sinh trẻ măng, chúi vào nhau tránh tiếng nổ, chị trưởng đoàn mỉm cười...
 
 

Giấc mơ sinh thành

11/07/2023 lúc 08:57






T





rong đời làm báo, viết văn của tôi, chỉ biết lên rừng, xuống biển, thầm lặng đi và viết, đâu dám nghĩ chi về nghề hay phát ngôn điều chi tương tự thế. Ấy vậy mà nay lại gặp  sự cố, nói chính xác ra là bị ám ảnh bởi một chuỗi giấc mơ, khó nói đến lạ. Nhưng khó cũng phải nói ra; không nói ra không cầm được bút để viết tiếp và cũng khó để trở thành người.
Câu chuyện như một kỷ niệm nghề, cho phép tôi được kể ra không theo một trình tự nào hết.

Nguyên do có lẽ bắt đầu từ cuốn hồi ký.
Mùa hạ năm một chín chín sáu, tôi có người bạn ở Tp. Hồ Chí Minh gửi tặng cuốn sách (chẳng là nhóm bạn bè chúng tôi duy trì một thói quen từ thời sinh viên như thế) lại là cuốn hồi ký của một nhạc sĩ tài hoa có tựa đề “Phạm Duy- Thời cách mạng, kháng chiến" in ở hải ngoại. ...........
 

Tết quê xưa

11/07/2023 lúc 08:57






C





âu ca thì thế mà ngay từ sau hai bảy Tết, thầy vừa cho nghỉ học xong, đám trẻ học sách “Tam tự kinh” đã lần lượt nối nhau lễ mễ đội cỗ đến lễ nhà thầy.
Năm ấy tôi chưa bén sáu tuổi. Để khỏi quần cụt, phơi rốn, tím môi lêu đêu rong theo lũ trẻ chăn bò với đủ trò khăng, đáo… giữa cái rét đông, đầu tháng chạp ta, ông nội tôi xỏ mũi lôi tôi đến giao gửi cho thầy đồ. Tôi bắt đầu xếp bằng tròn, chăm chú vào mấy nét mực tàu, ngúc nga ngúc ngắc: Nhất là một, nhị là hai, tam là ba, tứ là bốn… Thằng bé ngồi cạnh to đầu hơn, phải nhai mấy chữ: Bất là chẳng, chi là chưng, nhân là người… màu tối, lẫn lộn mãi, mấy buổi cũng chẳng thuộc cứ bị roi song đét vào mông. Tôi sợ chiếc roi song còn hơn sợ cả ông “Ba bị chin quai”. Hai chín Tết rồi mà sao mẹ tôi vẫn cứ mải lo chợ búa, sắm sanh đủ thứ đâu đâu, chưa lo gì đến cái lễ thầy cho tôi cả, tôi bắt đầu mếu lên mếu xuống. Thì, ngày ba mươi Tết, ông nội tôi giao việc dọn dẹp nhà cửa, lau chùi bàn ghế, ấm chén cho các chú, rửa ráy mặt mũi chân tay sạch sẽ cho tôi, thắng cho tôi chiếc áo thâm dài mới mua còn thơm mùi hồ, chiếc quần vải thô trắng, rồi bắt tôi đội lên đầu một lưng thúng nhỏ gạo nếp chừng ba cân, một khổ thịt lợn to, một be rượu, dắt tôi đến lễ thầy. Khoan khoái và thú vị biết chừng nào khi đang được thực hành cái việc đạo lí trọng đại!
........
 

Sen hồng một đóa

11/07/2023 lúc 08:57






C





ách đây không lâu tôi còn đứng nói chuyện với chị ở sân nhà 51 đường Trần Hưng Đạo, sắp lên xe thì chị thoáng thấy tôi đang từ cổng bước vào. Một ngày đầu hạ mấy cây dã hương đua nhau thả lá vàng, loài cây thay lá trái mùa.
Làm sao mặt thì sáng, miệng thì tươi mà đôi mắt lại lừ lừ thế kia nhỉ, đôi mắt của người giàu nội lực nhưng sâu thẳm là buồn.
Trong phần đầu tập tranh chị tặng tôi thấy có in mấy dòng tiểu sử: Họa sĩ Vũ Giáng Hương sinh năm 1930 tại Hà Nội. Quê gốc Đông Cảo, Gia Lương, Bắc Ninh. Cha là nhà văn Vũ Ngọc Phan. Mẹ là nhà thơ Hằng Phương. Chồng là giáo sư bác sĩ Lê Cao Đài.
Ghi thì cứ ghi chứ đời con người ta khó gói nổi vào mấy dòng đơn giản vậy. Đời người đâu chỉ là hữu hạn, và càng muốn giản hóa nó thì lại càng xa nó. Hình như nó phải là tiếng vang của hòn cuội lăn lanh canh trong đáy thời gian. Muôn vật ở đời đều có giữ trong nó một mật mã mà ta gọi là lịch sử. Mỗi con người cũng thế, có mang mật mã lịch sử của mình. Tôi có một anh bạn là chuyên viên cao cấp ngành tổ chức, một hôm đang ngồi với nhau, không ai hỏi tự dưng kêu thất thanh, các ông không hiểu đâu, đời tôi tưởng thế chứ cực lắm, ngồi vào bàn là trông thấy những đống lý lịch. Tôi cũng kêu lên, sao chúng tôi lại không hiểu, đời anh nhàn thế nào được, nhưng nếu anh không ngồi đấy thì lại phải có người khác, nó là một công việc thời nào cũng phải có. ....
 

Tìm bóng cha ông

11/07/2023 lúc 08:57






1





Ở cái rẻo đất nhỏ nhoi sát sông Bến Hải có tên là Xuân Mỵ của huyện Gio Linh này  nhiều lần tôi đã đi tắt về ngang mà chưa dừng lại. Một phần máu mủ ruột rà bên nội  của tôi ở đây. Thủa nhỏ, lũ trẻ chúng tôi ở bờ Bắc vẫn thường nhìn qua bên  Xuân  Mỵ để đồng thanh hát bài đồng dao mà chưa hiểu hết nghĩa của nó: Văn chương Xuân Mỵ, lý sự Thuỷ Khê, làm thuê Cẩm Phổ, ở lỗ làng Tùng, rùng rùng làng Cửa...và để lúc xa cứ như thấy mình mắc nợ với  Xuân Mỵ, mắc nợ với bài đồng dao vì nhiều điều chưa khám phá. Khắc khoải, vấn vương da diết về ký ức tuổi thơ, về miền quê thân thuộc...Để rồi tự mình lần tìm trong ký ức, tìm trong hoài niệm về vùng quê ấy để hiểu, để nhớ, để yêu thêm một miền đất Gio Linh dày trầm tích.       
Xuân Mỵ quê tôi Bắc giáp sông Bến Hải, Nam giáp làng Thuỵ Khê và Thuỷ Bạn, Tây giáp sông Cánh Hòm và phía Đông giáp làng Cát Sơn. Tên làng Xuân Mỵ từ khi xưa đến nay giữ nguyên không thay đổi. Chữ “Mỹ” hay chữ “Mỵ” đều có nghĩa như nhau - tức là đẹp – khác chăng là do cách phát âm của địa phương mà thôi. Văn bản chữ Hán ghi là “Mỹ”, địa phương phát âm thành “Mỵ”nên về sau chữ Quốc ngữ cũng ghi tên làng là Xuân Mỵ. Hai  vị thuỷ tổ họ Ngô và Đỗ đã có công lao trong quá trình khai khẩn, rồi đến họ Mai, Trần Cảnh, Trần Quang, Nguyễn Xuân, Nguyễn Đức,Trần Văn, Nguyễn Hữu. ..........
 

Trâm,f tích Gio Linh

11/07/2023 lúc 08:57






K





hi hàng cây xoài xanh ngát bên con đường Quang Trung, thị xã Quảng Trị ra hoa kết trái cũng là thời khắc đại đội chúng tôi được lệnh của chỉ huy rời doanh trại ở Thành Cổ để hành quân về mảnh đất Gio Linh. Chuyến đi của chúng tôi, những học viên khóa bồi dưỡng quốc phòng đối tượng hai nhằm khảo sát con đường quốc phòng chiến lược ven biển và việc xây dựng khu vực phòng thủ cấp huyện trong thời bình. Buổi chiều mùa hè nắng như đổ lửa vẫn không ngăn được cuộc hành quân với bao háo hức của chúng tôi khi tìm về với đất anh hùng.
Dừng chân trên đỉnh đồi Dốc Miếu, Bí thư Huyện ủy Gio Linh Phan Văn Phụng có ý để cho đoàn được thăm lại địa danh lịch sử năm xưa. Nơi đây, năm 1947 người Pháp đóng chốt quân sự để án ngữ Quốc lộ 1A và được gọi là Ba Dốc. Dốc Miếu cũng là căn cứ đầu tiên của Mỹ, gần vùng phi quân sự nhất, được xem là "con mắt thần" của hàng rào điện tử McNamara. Sau năm 1954, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn xây dựng Dốc Miếu thành một cứ điểm quân sự lớn nhất nam Vĩ tuyến 17 với kinh phí lên đến 800 triệu USD, nhằm ngăn chặn và là căn cứ pháo binh đánh vào các mục tiêu của miền Bắc. Giờ đây, đứng ở Dốc Miếu nhìn lên, trải dài trước tầm mắt là cánh rừng cao su xanh tốt nối tiếp nhau dọc theo hàng rào điện tử McNamara năm xưa, như chưa hề có cuộc chiến tàn khốc đi qua trên mảnh đất này.
 
 

« 6263646566 »

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

27/04

25° - 27°

Mưa

28/04

24° - 26°

Mưa

29/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground