Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 27/04/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Truyện ngắn

Hoa hồng mùa Vu Lan

16/08/2022 lúc 10:53

Ánh sáng của tình yêu

07/10/2021 lúc 10:07






C





hiếc ô tô dừng đột ngột ở lưng chừng con dốc nhỏ. Xuống xe gần như cùng lúc với Hân nhưng điều đầu tiên mà Vĩnh nhìn thấy là mấy cột bê tông được xếp chồng lên nhau bên vệ đường đỏ au màu đất bazan sau cơn mưa lớn đêm qua. Giúp Hân mở nắp mui xe, Vĩnh vui vẻ nói rằng dẫu từng được học năm năm liền ở trường đại học bách khoa nhưng anh không hiểu điều gì đang gây ra sự im lặng không hề mong đợi này của động cơ ô tô. Rất nhanh, cái nhíu mày của Vĩnh chạm tới thực tế đây là lần đầu Hân lên vùng này. Anh lùi lại một bước với ý nghĩ nghề lái xe sẽ chỉ cho Hân cách làm cho chiếc xe ngoan ngoãn lăn bánh trở lại.
Xe của Chi nhánh Điện Khe Sanh đã đưa công nhân đi sơn cột đỡ từ sáng sớm. Xưởng sửa chữa xe quen thuộc với họ đã đóng cửa hai ngày nay để về xuôi dự đám cưới. Chừng ấy thông tin đã thổi tung cái tia chớp hy vọng vừa lóe sáng trong Vĩnh. Đã hơn bốn lăm phút đồng hồ trôi qua và, dáng người loay hoay của Hân hết tìm lỗi kỹ thuật trong khoang máy lại lên cabin mở khóa thử khởi động xe làm Vĩnh hiểu rằng, cách tốt nhất để anh tới trạm biến áp Pa Tầng kịp giờ kiểm tra phụ tải lưới điện ở đó là đi bằng chính đôi chân của mình.

- Mai Hoa! Em vô đây, ngoài đó nắng chiếu cả ngày rồi, nóng lắm.
Vĩnh ngẩng mặt lên khỏi bảng hiển thị thông số truyền tải điện của trạm biến áp đầy kín những con số bởi giọng nói vui mừng của Trung. Bước qua khung cửa ra vào đang tràn ngập ánh sáng của buổi chiều oi ả là một cô gái mang chiếc váy xanh in hoa trắng giản dị. Trong mấy tích tắc chào cô gái, cái cười phảng phất trên gương mặt Vĩnh như muốn nói rằng sự ngập ngừng nữ giới thường để lại ấn tượng đẹp trong ký ức của những người đàn ông. Trở lại phần việc của mình, càng lúc Vĩnh càng đến gần điểm nút của các kết luận chuyên môn đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối và cả sự nhạy bén.
- Cô giáo nhờ em giúp chuẩn bị ánh sáng và âm thanh trong buổi văn nghệ của trường tối nay. Trung xin phép đi cùng cô gái đến trường tiểu học của xã với lý do khá thú vị.
- Ừ, giúp trường thật tốt là em cũng sẽ được thưởng thức văn hóa, văn nghệ. Vĩnh vỗ vai chàng trai trẻ đang cười thật tươi. - Xong việc, nếu lát nữa xe vô được thì anh sẽ về. Cảm ơn Trung. Đi đi, cô giáo đang chờ...
- Anh sẽ không về được đâu, sếp ơi. Vừa chạy nhanh ra ngoài, Trung vừa hét lên một cách phấn khích như thể chính mình đang rất mong Vĩnh gặp thêm một rủi ro nào đó.
Đến lúc gấp những cuốn sổ chi chít các thuật toán lại, Vĩnh mới nhận ra buổi chiều ở bản nhỏ này thật thanh vắng. Cuộc điện thoại lần thứ ba của Hân cho biết cái động cơ ô tô vẫn bướng bỉnh giữ chuyến công tác của mình lại giữa con dốc xa lạ kia. Vĩnh bước ra ngoài và ngay trên khúc lượn của con đường phía trước, anh hướng mắt tới chân mây đỏ ối cái màu của vầng mặt trời đang từ từ lặn xuống sau dãy núi chập chùng. Trong ánh chiều chậm rãi buông, dáng điệu nhanh nhẹn của mấy đứa trẻ đen bóng lội qua con suối trong của bản đang lặng lẽ tỏa hương thơm của loài chạc chìu mọc đầy hai bên bờ là hình ảnh sinh động nhất giữa khung cảnh thanh bình tuyệt vời nơi đây. Ở bên ngoài câu chuyện đang được nói bằng ngôn ngữ của người Vân Kiều, nhưng Vĩnh có ý nghĩ chắc chắn rằng, mấy đứa trẻ này đang đến nơi sẽ diễn ra buổi văn nghệ của trường tiểu học tối nay. Bất giác, anh mỉm cười.
Đối với toàn bộ vị giác của Vĩnh, bữa cơm chiều hôm ấy ngon lạ thường. Trung đã nấu món canh từ măng rừng và nướng trui mấy con cá suối mà khi nghe chúng chuyển thành năng lượng sống trong cơ thể mình, Vĩnh thầm cảm ơn vẻ tịch lặng của hoàng hôn miền sơn cước đang hào phóng cho anh sự bình tâm để cảm nhận ngay trên đầu lưỡi của mình vị ngọt bùi và độ nồng ấm của thiên nhiên xung quanh.
Một khúc dạo đầu bập bùng vang lên từ phía trường tiểu học. Có vẻ như người nào đó đang nắn chỉnh các dây đàn của một cây guitar làm mười ngón tay của Vĩnh run lên trên trang giấy của bản báo cáo về hai mươi năm xây dựng và phát triển hệ thống lưới điện truyền tải của điện lực trên phạm vi toàn tỉnh mà anh đang viết phần mở đầu. Tiếng đàn nhắc Vĩnh nhớ đã hơn hai mươi năm rồi, anh quên mình là người say mê những cung bậc của cây guitar mộc mạc và từng là một hạt nhân của phong trào văn nghệ ở trường đại học Bách khoa Đà Nẵng. Đó là khoảng thời gian Vĩnh mải mê với công việc hấp dẫn mình trong từng hơi thở và ngành điện lực của tỉnh đã đào tạo nên một trưởng phòng điều độ như anh. Dường như anh đã đem toàn bộ sức lực của đời mình cho đến lúc này để làm công việc của một kỹ sư điện lực mà cả khi nhắm mắt lại trong mỗi giấc ngủ, anh vẫn có thể vẽ được sơ đồ của các trạm biến áp, sơ đồ đường dây cao thế, trung thế, hạ thế trong tỉnh và hơn thế nữa. Nhưng giờ đây, âm thanh của đàn guitar bên trạm biến áp ở vùng cao này gợi dậy trong anh cảm hứng thân thiết sâu sắc của cái thời sinh viên nồng nhiệt có nhiều lúc đàn, hát để quên cơn đói giữa thành dạ dày của hơn hai mươi năm trước...
 
 
 
 

Chùm truyện mini

07/10/2021 lúc 10:07

GIỮA TIẾNG GIÓ NGÀN





T





rạm kiểm lâm nằm giữa một thung lũng nhỏ, ngay dưới chân đèo, chung quanh vắng vẻ, toàn đồi là đồi, ngọn cao, ngọn thấp, chập chùng. Cơn mưa chiều đã dứt từ lâu nhưng  mọi thứ quanh trạm đều ẩm ướt. Gió đầu mùa chốc chốc lại ùa đến từng cơn làm cho ngôi nhà lợp tôn của trạm rung lên bần bật.
          Gần 11 giờ đêm. Nhân viên trong trạm ai nấy đều chuẩn bị nghỉ ngơi, vì đây là tuyến đường ít xe qua lại, và thông thường, vào giờ này, sau những trận mưa to, chẳng mấy tài xế lại  cho xe chạy. Vậy mà chỉ mấy phút sau đó, có tiếng còi bíp bíp vang lên và một chiếc xe khách đã xuống dốc rồi dừng ngay trước thanh chắn ba-ri-e.
Trưởng trạm là một người đàn ông tuổi đã quá năm mươi, bước ra sân, nhìn thấy xe liền vội vã quay vào lấy chiếc đèn pin. Hằng ngày, những chiếc xe đò qua đây chẳng có  thứ gì đáng nghi ngờ để phải khám xét. Nhưng mấy ngày nay, lệnh của trên truyền tới, yêu cầu các trạm phải khám kỹ các phương  tiện từ miền ngược xuống. Vì nạn buôn bán hương xá xị gần đây đã làm cho nhiều cánh rừng bị  phá hoang tàn. Hễ thấy chỗ nào có cây xá xị thì người ta không chỉ đốn ngọn, cưa gốc mà còn đào tung lên, lấy cả rễ mang đi  chưng  cất rồi đưa về thành phố  để bán. Bắt được các  đầu nậu buôn bán hương liệu ấy thì mới ngăn chặn bớt được cảnh rừng bị tàn phá.
Chiếc xe đò này xuống quá khuya, chắc chắn là có ẩn ý! Người Trưởng trạm nghĩ và không một chút ngần ngại, đích thân mình bước lên xe để kiểm tra. Chiếc đèn pin quét ngang các túi lớn, nhỏ, rồi yêu cầu từng người mở ra cho ông xem. Có lẽ mình quá đa nghi! Trưởng trạm tự nhủ, nhưng khi kiểm tra đến băng ghế cuối cùng của chiếc xe thì mắt ông sáng lên. Trước mặt ông là chiếc ba lô căng phồng và chủ nhân của nó là một người đàn ông gầy gò trong bộ đồ bộ đội đã cũ, nhàu nhò.
-Chiếc túi này của ai?
Câu hỏi của  Trưởng trạm kiểm lâm khiến người đàn ông tỏ ra lúng túng. “Dạ thưa… của tôi”. Bộ dạng của vị khách làm cho ông Trưởng trạm sinh nghi, tưởng mình đã nắm chắc trong tay thứ cần truy tìm. Ông cất giọng lạnh lùng:
- Thứ gì bên trong? Mở ra?
- Dạ thưa…
- Tôi bảo mở ra để kiểm tra mà !
- Dạ thưa…
Vị khách đi xe bối rối, nắm chặt lấy chiếc ba lô. Trên xe nhiều người bắt đầu tỏ ra khó chịu. Người tài xế thì cáu gắt:
- Không có gì thì mở ra cho người ta xem, khuya rồi, kỳ lạ quá!
Cuối cùng vị khách xách chiếc ba lô lên tay, ghé vào tai Trưởng trạm, nói nhỏ điều gì đó rồi cả hai cùng bước xuống xe. Sau khi đến đầu ngôi nhà, mở chiếc ba lô ra xem, ông Trưởng trạm không nói gì, chỉ giục vị khách lên xe và yêu cầu tài xế  cho xe chạy.
Chiếc xe đò đã đi từ lâu nhưng vị Trưởng trạm kiểm lâm vẫn đứng tần ngần giữa sân  với dáng vẻ u buồn. Ông nhớ lại, hình như mình đã gắt gỏng với vị khách kia thì phải. Trong chiếc ba lô chẳng có gì ngoài bộ hài cốt của đồng đội mà người đàn ông kia đã cất công tìm kiếm.
Thế mà mình… Lòng ông nặng trĩu, ông lầm bầm một mình giữa tiếng gió ngàn: “Các đồng chí ơi, hãy tha thứ cho tôi! Ngày xưa tôi cũng là người lính…”
 
 
MỘNG VÀ THỰC
                                           
Không phải vô cớ mà gần tháng nay, chiều chiều hắn lại đến ngồi trên chiếc ghế đá của cái công viên nhỏ này. Anh trai hắn có tiệm sửa xe máy, có nhiều người học việc, nhiều người làm thuê, bảo hắn cố chịu khó làm lụng thì hằng tháng sẽ trả tiền đường hoàng. Nhưng hắn thuộc loại không thể lười hơn. Đã gần ba mươi tuổi, không nghề ngỗng gì, bằng cấp thì chưa tốt nghiệp cấp ba, suốt ngày rong chơi, vào tiệm sửa xe một lúc chưa nóng chân đã bỏ đi lê la ở các quán cà phê với bạn bè.
 Đã thế, hắn lại không biết phận, hay mơ ước trở thành người giàu sang. Hắn nghĩ, để giàu, với hắn chỉ có ba cách, trúng số, đào được vàng, hoặc cưới một cô vợ con nhà khá giả. Tuy nhiên, mua vé số hoài chẳng trúng, vàng nằm trong lòng đất biết chỗ nào có, hắn chỉ còn tìm đường dựa vào cách thứ ba. Và rồi cách đây gần tháng, vô tình thôi, trên đường đi dạo lang thang trong thành phố, hắn tấp xe vào cái công viên nhỏ, vắng vẻ này mua một que kem ngồi ăn. Nhìn quanh, bất ngờ, hắn phát hiện, trên ban công của ngôi biệt thự cạnh công viên, có một cô gái trẻ trạc tuổi hắn, khá xinh đứng nhìn về phía hắn.
- Ê! Hắn đánh liều gọi rồi đưa tay lên vẫy vẫy, làm quen.
Hắn nghĩ cô gái sẽ khó chịu trước cử chỉ của hắn, song thật bất ngờ, cô gái cũng đưa tay lên chào hắn, miệng lại cười rất tươi. Từ đó, chiều chiều, hắn lại đến công viên, lại gặp cô đứng trên ban công và hai người lại nhìn nhau và vẫy tay chào nhau. Hắn đoán chắc cô gái đã mê mình rồi. Hắn quyết định tìm hiểu và lòng khấp khởi vui khi biết chủ nhân ngôi biệt thự là ông giám đốc của một công ty lớn có tiếng của thành phố.
Sao lại không được kia chứ? Lắm người nghèo vẫn lấy được vợ giàu đó thôi! Đêm nằm hắn trăn trở với ý nghĩ phải chiếm được tình cảm của cô gái kia. Hắn tự nhủ, mình không được vội vàng, mọi thứ phải lịch sự và bình tĩnh. Hắn biết mình cao ráo, đẹp trai, một yếu tố quan trọng để chinh phục, bây giờ chỉ còn phải biết kiên nhẫn và chờ đợi....
 
 
 

Sau bữa cơm tối

07/10/2021 lúc 10:07






V





ừa  ăn cơm xong, cả nhà lại kéo nhau vào phòng riêng của vợ chồng Toàn xem tivi, cười nói râm ran. Hảo ngồi nép sát vào góc giường, bên cạnh chồng, thi thoảng góp một vài nụ cười gượng gạo. Dường như không ai để tâm đến trạng thái của cô. Một cảm giác khó chịu khi không gian riêng mà đáng ra chỉ có hai người tận hưởng những giây phút ngọt ngào bị chiếm mất.
Cô phát thanh viên đài VTV3 vừa nói lời chào kết thúc chương trình giải trí, mọi người mới nhúc nhích về phòng của mình. Trước khi đi ra, mẹ chồng nán lại căn dặn: Tụi mày coi nhanh có cháu để bà bồng, cho vui cửa vui nhà, chớ đến lúc tao nằm xuống một chỗ là mệt đó nghe. Còn nữa, bữa nay mấy chuyện kế hoạch cho lắm rồi sau không đẻ đái gì được nữa, hãi lắm. Tụi mày coi đó mà liệu. Hảo dạ. Tiếng dạ chắc nịch như một lời hứa, nhưng cứ như thế này mãi thì vợ chồng cô đâu có cơ hội để mà thực hiện. Lúc chỉ còn lại hai người thì đã quá muộn, cả cô và chồng mệt lả người sau một ngày công sở, phải ngủ lấy sức mai chiến đấu với công việc nữa. Đó là chưa kể có hôm mẹ và cô Yến, em chồng xem cải lương rồi ngủ quên, không ai nỡ đánh thức. Hai vợ chồng chỉ biết thở dài, ôm hờ nhau ngủ.
Toàn hiểu cảm giác đó của vợ, anh cũng có gợi ý, rằng ở phòng khách cũng có ti vi nhưng vẫn không cải thiện được tình hình. Chẳng lẽ anh nói thẳng toạc móng heo ra, như vậy thì kỳ lắm. Hảo lại càng không thể. Cũng may, anh thông minh nghĩ ra cách bảo vợ giả đò ốm một tuần liền, cần yên tỉnh, tránh hơi người nên không ai vào phòng riêng của họ nữa. Thế là tòi ra thằng cu Bin ngay.
Thực ra, chuyện mẹ và em chồng thường xuyên vào phòng riêng của Hảo cũng chỉ là chuyện nhỏ, bởi nếu nghĩ rằng vì gia đình chồng đã quá quen cuộc sống sum vầy ở phòng con trai mỗi tối, nên khi có con dâu, họ vẫn chưa bỏ được thói quen đó. Âu cũng là một nếp sinh hoạt gia đình tốt, tuy nhiên hơi thiếu tế nhị trong hoàn cảnh này.
Hơn năm sau, cô Yến lấy chồng. Toàn được thăng chức trưởng phòng. Hảo cũng hết thời gian nghỉ phép. Bữa cơm hôm đó, Hảo bàn chuyện đưa cu Bin đi gửi trẻ nhưng mẹ chồng lập tức phản đối. Cháu tôi còn đỏ hỏn thế kia gửi đi đâu. Anh chị không thấy tivi phản ánh bây giờ nhiều nhà trẻ bất hợp pháp mọc lên, rồi chuyện bảo mẫu đánh đập hành hạ trẻ một cách tàn nhẫn vậy, anh chị nỡ đưa con mình vào đó ư. Anh chị cứ đi làm, cháu tôi để tôi giữ, không gửi đi đâu hết. Hảo phân tích: Con biết mẹ thương cháu, nhưng mẹ còn phải chạy qua chạy lại với cả mẹ con cô Yến nữa, con sợ mẹ vất vả. Mà mình chọn nhà trẻ đã được cấp giấy phép thì an tâm mẹ à. Đã bảo không là không, hay là anh chị khinh tôi không biết chăm cháu? Kìa mẹ, nhà con lo mẹ vất vả nên nói thế, sao mẹ nỡ nặng lời. Á à, anh giỏi thật đấy, tôi nuôi anh ăn học đến giờ lên chức này chức nọ, giờ anh đi bênh vợ cãi tôi. Ối giời ôi là giời. Từ trước tới giờ mày có thế đâu hả con. Mẹ buồn cười, có gì đâu mà kêu trời van đất như là... Như là sao, anh có giỏi thì anh nói đi, nói đi. Thấy tình hình căng thẳng, Hảo xoa dịu. Thôi con xin mẹ, em xin anh. Ý con sợ mẹ vất vả, chứ nếu mẹ thương chúng con thì con nhờ.
 
                                                      
Vừa đi làm về, lật đật dựng xe ở sân, Hảo cuống cuồng vào cho con bú. Khổ thân Bin, cả ngày chắc khát tý mẹ lắm nên mút chùn chụt. Bin ở nhà với bà có ngoan không ạ? Hư, hư lắm, cứ khóc suốt. Cha bố mày, cứ làm như bà thả đói cả ngày không bằng. Cháu nó nhớ tý mẹ bà ạ. Bin ngoan, ăn sữa xong chơi với bà để mẹ đi nấu cơm nhé! Bố về mà chưa có cơm là bố đánh đòn đấy. Ờ, tôi ẳm nó suốt ngày, tay chân có rảnh chút nào đâu mà nấu cơm. Con nựng cháu thôi mà. Bà đừng bế cháu trên tay nhiều quá, nó quen hơi người sẽ hư đấy.
Hảo ăn vội ăn vàng rồi bế con vào phòng riêng, Toàn cũng theo sau. Chừng năm phút thấy Toàn mặt cau có chạy ra: Mẹ, sao mẹ lại để muỗi cắn cháu đỏ hết hai chân thế kia. Nó mà phát sốt thì khốn. Đã bảo gửi nhà trẻ rồi không chịu, để ở nhà thì ra thế đấy. Mẹ chồng đang bưng bát cơm bỗng thả xuống bàn, tủi thân khóc bù lu bù loa. Khổ cái thân tôi, bế nhiều trên tay cũng nói, thả ra muỗi cắn cũng nói. Sao tôi khổ thế này. Hảo nghe tiếng khóc, bế con ra: Chỉ là vết muỗi cắn thôi, sao anh mắng mẹ. Toàn vẫn cương: Hôm thì xước trán, hôm thì muỗi cắn, tội nghiệp nó chứ. Bà mắt kém quá rồi. Vâng, tôi già cả, làm đâu hỏng đấy, tôi vô dụng. Toàn chỉ biết lắc đầu ngao ngán. Em đừng để tâm, người già là thế đấy.
Cu Bin đã ngủ ngon lành trên tay mẹ. Khuôn mặt thánh thiện của đứa trẻ mới viên mãn làm sao. Chỉ có trẻ con với tâm hồn ngây thơ trong trắng chưa vướng mắc chuyện trần gian nên mới có khuôn mặt bình thản như thế! Không biết điều đó có đúng không? Hay là chúng đang chiêm nghiệm suy nghĩ những điều mà người lớn đã nói, đã làm? Thi thoảng thấy nó cau mày, rồi cười, rồi khóc. Phải chăng trong giấc mơ đứa trẻ tái hiện lại những gì chúng đã nghe thấy mà chưa kịp lớn để phản ứng? Hảo đặt con lên chiếc nôi, phủ kín màn rồi đi giặt chậu tả lót to tướng. Toàn đi đi lại lại, đoạn ngồi xuống giặt cùng. Mẹ chồng trên nhà nhìn thấy, nói khía: Cơm nước giặt giũ là việc đàn bà. Từ nhỏ tới lớn tao đã bắt mày nấu ăn giặt giũ lần nào chưa mà giờ mày giỏi thế? Nhà con làm một mình tội quá, con... Đi cả ngày, giờ về làm có chút đó thôi mà kêu gì. Mày không nghe mấy bà hàng xóm ganh tỵ, con dâu nhà này là sướng nhất đó hả. Ngày tao đẻ mày, chưa đầy tháng là phải giặt giũ cơm nước, làm việc đồng áng rồi. Đến khi đẻ con Yến thì ba mày mất, một mình tao lo tất cả, bây giờ chả sướng quá còn gì. Em làm được mà, anh lên ngủ trước đi. Toàn thả dở chiếc tả xuống, lên nhà ngồi vào bàn máy tính.
 
                                                 
Cu Bin thấy mẹ về mừng rỡ, ào ra đón lấy túi kẹo từ tay mẹ khi chiếc Max chưa kịp dựng chân chống, rồi chạy vào nhà vừa ăn vừa xem tivi. Hảo nhắc con mời bà, bà đẵn giọng: Ghớm nữa, tôi lại đi ăn phần trẻ con à. Hảo nạt con: Bin, bất kể trước khi ăn gì cũng phải mời người lớn, nghe chưa. Cu Bin phụng phịu, mấy lần con mời, nhưng bà không ăn, bà bảo bữa sau biết thế rồi không cần bày đặt mời nữa. Hảo làu bàu: Bà làm thế hư cháu. Mẹ chồng thả bó rau xuống nền nhà, xốc hai ống quần: Chị không phải dạy khôn tôi, tôi nuôi hai đứa con khôn lớn ăn học làm việc này việc nọ, giờ chị bảo tôi không biết dạy cháu tôi nên người hả. Hảo im lặng, lách qua cánh cửa bước vào phòng.
Dạo này, cứ về đến nhà là Toàn cắm đầu vào chiếc máy tính. Hảo pha một cốc cà rốt sữa mang đến cho chồng, khoe: Hôm nay em mua được con cá lóc ngon lắm. Em nấu canh cá lóc măng chua, rau khoai lang trộn muối tiêu cho anh ăn nhé! Toàn ừ, có phần cau có: Em nấu gì cũng được, việc cơm nước đừng có hỏi anh, anh không biết gì đâu. Trước đây, Toàn thường chủ động bảo Hảo nấu món này món nọ. Canh chua cá lóc và rau lang trộn muối tiêu là hai món ăn dân dã mà anh thích nhất. Món đó phải tự tay vợ anh nấu, nó mang hương vị đặc trưng của miền trung vừa cay vừa mặn, lại thơm mùi tiêu, hành chứ không chua chua ngọt ngọt như ở thành phố hiện gia đình cô đang sinh sống. Về phòng riêng, Hảo giận dỗi: Anh bữa nay lạ lắm, đã làm về muộn, về đến nhà là chỉ biết cái máy tính, chẳng giúp gì cho em cả. Em buồn cười, anh lo công việc chứ có phải chơi đâu. Đàn ông đàn ang lo việc lớn, chứ mấy việc lặt vặt đó ai làm chả được. Anh à, bữa nay bà hay đi nói xấu em với mấy bà hàng xóm lắm. Em chỉ bảo bà không nên tập mấy thói quen xấu cho con, vậy mà bà bảo em là nói bà không biết dạy con cháu. Em e là...Thôi, bà già rồi em trách làm gì, ngủ đi mai anh còn đi làm sớm nữa. Hảo chỉ biết thở dài, lặng nghe từng tiếng sương rơi trong thành phố yên bình....
 
 
 

Tuổi thơ con ở đâu

07/10/2021 lúc 10:07






T





iếng cu gù da diết. Tiếng cuốc kêu khắc khoải. Tiếng sừng trâu đánh cồng cộc vào gốc cây đa làng. Tiếng rít thuốc lào sòng sọc. Tiếng ngáp ngủ ủ ê, trễ nải... Một cái bè luồng dài dằng dặc bập bềnh trôi. Vài cánh buồm nâu lấp loá trong nắng vãn chiều mùa hạ. Anh đang bơi, đang ngụp lặn cùng lũ trẻ chăn trâu trên dòng sông quê. Dòng sông quê đang chấp chới những câu hát đồng dao.
Bên kia sông là cánh đồng làng Yên Hạ cuối mùa gặt chỉ còn trơ cuống rạ. Lũ trẻ chăn trâu bên ấy lại đốt bùi nhùi nướng cà cuống, làm cháy cánh đồng dạ chưa cắt. Ngùn ngụt lửa và khói. Cào cào, châu chấu như những chấm đen xù bay chi chít trên đầu. Mùi dạ mới thơm nồng. Mùi rà cuống váng vất cay cay thơm mùi hương quế. Khói và lửa ngùn ngụt. “Lân ơi...ời ”. Cha anh hốt hoảng đi tìm anh. Cha anh cầm roi. Cha anh gọi: “Lân ơi...ời. Mày ở đâu? Đem ngay cái đít về đây... nằm xuống...”.
Anh vùng khỏi dòng sông quê. Anh chạy về làng. Anh nem nép vào nhà. Anh chìa mông đít. Anh đợi đòn... Vút... Vút... Vu...út.... Anh oằn người...
Nóng quá. Bức bối quá. Anh ngạt thở. Và anh ú ớ...
 
- Con biết bố đang mơ. Hoá ra thời trẻ con bố cũng bị đòn roi ?
Một cái giọng lạ của ai thế nhỉ ? Không phải giọng người lớn, mà là giọng trẻ con. Thì ra là một thằng bé mặc bộ đồ trắng toát. Anh cũng không nhìn rõ mặt nó. Hình và bóng nó lúc rõ nét lúc nhoè đi, chập chờn, chập chờn.
- Cháu là con cái nhà ai? Đêm hôm thế này... Sao lại ở đây một mình. Về nhà đi.
- Thế là bố không nhận ra con !
- ...
Thằng bé chợt thở dài. Hình như anh vừa chạm phải nỗi buồn của nó. Thằng bé xoay người lại. Rõ ràng là nó muốn nói chuyện với anh.
- Vậy là bố đã quên con thật rồi. Hôm ở toà về, bố chả bảo mẹ: “Đành rằng tôi và cô đã thống nhất với nhau và toà cũng xử đồng ý để cô nuôi thằng Tũn, tôi nuôi cái Hường. Tôi nói thật lòng, nếu vậy là hai anh em chúng nó phải chia ly từ bé. Đứa được bố thì mất mẹ, đứa được mẹ thì không có bố. Thôi, hãy vì con mà thay nhau nuôi chúng nó.”. Chả hiểu nghĩ sao mẹ gật đầu. Thế là tháng này chúng con ở với bố, tháng sau chúng con về với mẹ. Giống như là bố mẹ thay nhau đi công tác vắng nhà. Cứ mùng một hàng tháng là chúng con được gần bố thì lại xa mẹ, gần mẹ thì...
- Thôi! Đừng nói nữa... Não cả lòng cả ruột - Anh buột miệng, cau mày.
        Thằng bé im bặt. Khổ thân nó. Lần này đến lượt anh thở dài. Mà sao nó biết tường tận chuyện nhà mình thế nhỉ. Hay là thằng Tũn thật?
         Thằng bé lại cúi xuống. Vậy là nó đang học bài. Nó mười một hay mười hai nhỉ. Không, nó còm nhom như đứa lên mười. Sùm sụp hai mắt kính lồi như đít chai bia Trung Quốc chụp vào mắt thằng bé. Nó ngồi gò lưng ôm lấy bàn, còm nhom như ông lão, như Lã Vọng còng lưng ôm nơm thò tay vào trong bắt cá. Mồ hôi mồ kê thằng bé túa ra. Khuôn mặt nhẫn nhục, chịu đựng quá, miệng lại đang cắn đuôi bút. Anh đã nhận ra sự bất lực của thằng bé trước trang sách trắng lổn nhổn những con số, con chữ. Chúng như tà ma nhảy nhót thách đố, bắt hồn thằng bé rồi. Trời ơi! Cái dáng ngồi. Cái dáng ngồi đúng là của con tôi. Hãy lui ra chỗ đèn sáng này cho bố nhìn rõ mặt. Có phải thằng Tũn không? Trời đất ơi! Con tôi thật rồi...
- Dừng lại đi con ơi. Không thể học như thế. Con sẽ ốm o mất.
- Thế là cuối cùng bố cũng nhận ra con...
- ...
- Bố đừng ngăn. Không làm hết bài tập, bố kiểm tra, chính bố tét conxoắn đít lại. Bố ơi, ngày xưa còn trẻ con, bố có hay bị ông đánh không? Đau lắm đấy bố ạ. Người lớn không bị đánh, người lớn không thấy đau đâu.
- Yêu cho vọt, ghét cho chơi.
- ...
- Là bố nói thế thôi. Con có làm sao thì bố  mới đánh chứ. Còn oan lắm đấy hả? 
- Vâng. Con oan lắm bố ơi.
- Ơ. Mày bị oan bao giờ hở con?
- Vậy là bố quên rồi. Hôm con với thằng Cu trèo lên sân thượng tầng năm xem trăng rồi cãi nhau, chưa biết nếp tẻ thế nào bố oánh liền. Bố chả hiểu gì trẻ con chúng con.
- Hôm ấy mày đánh nhau với bạn. Như thế là hư lắm con ạ.
- Tại thằng Cu tinh tướng lắm cơ. Rõ là đồ nhà quê. Nó nghỉ hè, ở quê ra chơi nhà chú nó. Chú Côn ấy. Nó bảo thế này bố có thấy tức không: “Trăng phố mày đếch đẹp bằng trăng làng tao. Trăng làng tao có chú Cuội ngồi gốc cây đa. Trung thu năm nào trăng cũng xuống sân đình phá cỗ với bọn trẻ chăn trâu cơ. Trăng phố mày có gì mà đẹp. Nhà tầng phố mày cao chót vót, nhìn lên chỉ thấy một đám trời như cái ao tù làng tao. Trăng mà chui ở ao tù thì trăng cũng bị cầm tù nghe chưa. Mà điện phố chúng mày sáng thế thì cần đếch gì trăng. Trăng ở phố mày là trăng thừa, bỏ đi...”. Thằng ấy dốt quá bố nhỉ. Trăng ở đâu chả là trăng. Như nhau hết. Nó lại còn ngồi say sưa hát:...
 
 
 

Ngọn lửa thiêng

07/10/2021 lúc 10:07






T





ôi lên Trường An vào một chiều mưa. Lúc này đang đầu thu nên mưa cũng không nặng hạt nhưng vì không nặng hạt nên đường càng khó đi. Bụi đường như thứ bột pha nhuyễn, nhão nhoẹt và đặc quánh. Chiếc ba lô áo quần thì ít, giấy bút thì nhiều đè nặng trên vai, khiến tôi cứ phải rướn người lên phía trước; thỉnh thoảng bị mất đà lạng choạng suýt ngã nhào xuống vực. Phải gần nữa ngày đường tôi mới đặt chân tới bản. Ngồi ở đầu dốc trong một chòi cạnh vườn, tôi moi thuôc lá ra hút. Chao, chút khói mới ấm bụng làm sao? Hút và nghỉ ngơi…Mông lung nhìn những ngôi nhà sàn thấp thoáng trong mưa, lòng tôi chạnh buồn. Chao ôi, có lẽ nào?...
Tôi mới ra trường đại học – Có tên nôm na là đại học tiểu học. Những tưởng lấy được bằng, các trường miền xuôi sẽ đón tôi, sẽ “nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa” nào ngờ ông trưởng phòng giáo dục gọi lên trao cho quyết định sở gửi về. Nội dung quyết định là đưa tôi về phụ trách trường tiểu học bản Trường An, hưởng chế độ giáo viên miền núi… Và – theo lời giới thiệu của ông trưởng phòng, tôi sẽ ở nhà ông trưởng bản có tên gọi Hồ Tân…

Sau khi lội qua một con suối hẹp, leo lên một dốc đá ngắn thì bản Trường An hiện ra như một cái mỏ lộ thiên. Bản có vài chục ngôi nhà, xếp hình vòng cung, cong như trăng lưỡi liềm. Tôi từng nghe nói đồng bào dân tộc thiểu số còn nghèo lắm, xơ xác lắm! Nhưng với Trường An chẳng khác gì những thôn làng dưới xuôi; thậm chí còn hơn dưới xuôi bởi ở rừng mà bản thoáng đãng, không có cây cối rậm rạp um tùm. Nhà ở cách nhà vài chục mét, ngăn chia nhau những dậu mồng tơi trên đường vào ngõ. Nhà sàn! Cả bản đều nhà sàn, mái lá. Duy nhất một nhà đầu bản lợp ngói đỏ au. Nhà ông Hồ Tân…
Tôi chậm rãi leo lên chiếc cầu thang nhỏ bằng gỗ loại đắt tiền. Sàn dưới được quét dọn rất sạch sẽ. Dưới những cây ăn quả như: Mãng cầu, mít, chanh là những mạ gà ôm con chờ mưa tạnh…
Tôi đứng ở cánh cửa nhìn vào. Trong nhà được bài trí rất đơn giản nhưng trang nhã. Đó là bộ bàn ghế rặt gỗ mun thoáng nhìn đã mát lạnh; một tủ đứng ba buồng cũng được làm bằng gỗ tốt. Trên bàn thờ, hiếm ai ở xuôi có được bàn thờ như thế! Bàn thờ đặt ở vị trí vừa tầm tay để thắp hương và cắm hoa khi thờ cúng. Tất cả đồ cúng lễ được chế tác bằng đồng lúc nào cũng sáng rực như phát quang; trên bàn thờ chỗ trang trọng nhất là bức ảnh Bác Hồ. Rõ là “Bác đứng trên cao đưa tay bác vẫy chào”. Và, điều tôi chú ý nhất vẫn là ngọn đèn. Một ngọn đèn dầu được đặt trong khung kính lúc này vẫn đang cháy sáng… Đã mười giờ sáng, chủ nhân vẫn chưa về. Đặt ba lô xuống bên góc nhà, tôi định bước xuống cầu thang để “xem ló ngó đồng” một lúc cho đỡ buồn thì thấy một người đàn ông đang xăm xăm đi vào ngõ. Hồ Tân đã về…
Mặc dù nhìn thấy tôi nhưng Hồ Tân không chút vồn vã, niềm nở tựa như tôi ở trong ngôi nhà này đã lâu lắm rồi. Chậm rãi đến mức khoan thai và thong thả, ông bước về phía bể nước. Sau khi chùi sạch cái cuốc trên vai, ông bắt đầu kì cọ chân tay; vuốt hai ống quần xuống, ông nhìn quanh một lúc rồi đi lên cầu thang. Không đợi tôi chào, ông hỏi ngay:
- Thầy giáo mới lên à?
- Dạ!...
Ông đi tới một góc phía bàn thờ, thò tay lấy đôi kính trắng rồi ngồi xuống ghế:
- Thầy cho tôi xem cái giấy!...
- Giấy gì ạ? Tôi trở nên chậm hiểu.
- Thầy lên đây bằng hai tay không à?
Tôi thoáng nhìn ông và hiểu ra món giấy tờ tùy thân. Đọc mấy dòng ông ngước mắt lên:
Thầy tên là Hào… Đỗ Vĩnh Hào à? Hai mươi hai tuổi trẻ quá hè!...
Trao lại tờ giấy cho tôi, ông hỏi tiếp:
- Thầy thông cảm, dù sao cảnh giác vẫn không thừa! Độ này bọn lâm tặc, thú tặc đang săn lùng ráo riết.
Tôi ngạc nhiên:
- Thú tặc là gì ạ?
- À, bọn buôn bán động vật hoang dã đấy mà!
Hồ Tân nói xong liền hỏi luôn: Thầy Hào không mang theo gạo à?
Không trả lời ông, tôi chỉ tay vào chiếc ba lô và nói:
Bác tính, ngần ấy sách cũng nặng lắm rồi! Thấy tôi không nói gì thêm, ông bố trí cho tôi cái phòng lồi để ngủ; rồi ông dặn:
- Trong nhà này có hai nơi thầy bất khả xâm phạm. Một là bàn thờ, hai là buồng ngủ của vợ chồng tôi… Còn thì, thầy cứ tự do trong khuôn phép mà thầy đã học ở đời…..
 

Mây bay ngang trời

07/10/2021 lúc 10:07






M





ột lần nữa Quyên lại không cưỡng được ý muốn của đôi chân đang tiến dần về mép biển. Bỗng dưng, trong một buổi tối Quyên mất con gái. Bé Bông biến mất không một dấu vết. Đó là tội lỗi tày trời của Quyên, mẹ Quyên đã không thương tiếc đánh tới tấp vào người Quyên khi cô đờ đẫn vác mặt về nhà báo tin bé Bông mất tích. Đã bao lần Huy bảo cô nên đưa con về nhờ mẹ trông giúp nhưng với bản tính chủ quan và vô tâm nên Quyên cứ lần lữa. Con gái là người giúp Quyên dễ đi vào giấc ngủ, không có con, trí óc Quyên cứ căng ra, chẳng thể nào chợp mắt. Chính vì vậy, Quyên đành để mặc con một mình chờ đợi mẹ trong khi mẹ cứ mải mê với những cuộc chơi. Bé Bông sẽ chẳng thể nào hình dung nổi những cuộc chơi ấy cần thiết đến mức nào so với việc để cho đứa con gái bé bỏng đơn độc chờ đợi  mình hàng đêm. “Chúng ta đều là những ông bố, bà mẹ tồi”. Đêm nay, Huy đã nói vậy khi chia tay, sau khi hai người đã không thể làm nổi cái việc mà mỗi lần gặp nhau họ đều lao vào nhau như hai con hổ đói tình. “Anh xin lỗi đã không thể bên em lúc này. Anh phải đi đây”. Huy xách vali vào trường, ngày mai anh thi kết thúc học kỳ. Đó là lý do khiến Huy nói rằng anh không thể làm giúp Quyên lúc này.
Quyên chẳng mặn mà lắm với thông tin Huy sắp được đi học, nhưng khi nghe anh nói sẽ phải học ở ngoại tỉnh thì cô nhảy đựng lên. Trời đất, trong đó một rừng phụ nữ, không có em người ta sẽ quây lấy anh. Huy cười rung cả giường, em làm cứ như người ta sắp nuốt chửng anh vậy. Chứ không à, Quyên cong cớn, một người vừa lịch lãm vừa đẹp trai như anh, phụ nữ nào chịu bỏ qua anh mới lạ. Thì tuần nào anh cũng về, nếu không thì em vào với anh, đây với đó, vài trăm cây số. Quyên dấm dứ, hứ, ai mà thèm, ừm, mà em phải vào để mấy cô trong trường anh biết người đàn ông này đã được sở hữu rồi chứ nhỉ? Huy mơ màng, anh chỉ lo phần em thôi, chẳng phải em nói em là người theo chủ nghĩa xê dịch là gì? Quyên cười khúc khích, nhưng với anh là ngoại lệ.
Trời lất phất mưa, phía biển mù mịt sóng, Quyên thích ngắm biển vào mùa đông, cái màu xám xịt của nó luôn làm Quyên cảm thấy lòng mình trống trải, cô độc. Nhưng cô yêu cái cảm giác ấy, cái cảm giác khiến người mang nó muốn nhảy ùm xuống biển và tan biến đi. Huy đi rồi, bao giờ cũng vậy, người ra về trước phải là Huy, chính vì vậy cái cảm giác muốn nhảy ùm xuống biển trong Quyên cứ trào lên mãnh liệt. Quyên thấm thía cái cảm giác lúc lủi thủi trả phòng một mình. Ánh mắt con nhỏ lễ tân như muốn nói rằng, yêu như cô sao mà khổ sở thế. Đến cả quyền về trước cũng chẳng được nhường ư? Cô cũng nhìn lại cô ta, ánh mắt Quyên trả lời, kệ tôi, vì tôi yêu mà. Huy nói, giờ chưa phải là lúc công khai tuyên chiến với vợ, cô ấy không hề có lỗi trong chuyện này, lỗi là do anh, anh đã không cưỡng lại được sức cám dỗ của Quyên. Quyên cũng vậy, Quyên đang sống cùng con gái bé bỏng của cô với người chồng cũ. Bằng sống cùng hai mẹ con cô. Giờ đây, dẫu có Huy rồi nhưng Quyên vẫn còn quyến luyến với Bằng, Bằng đã vứt bỏ tất cả để đến với Quyên, đứa con trai tám tuổi Bằng cũng phó thác cho cha mẹ đẻ, Bằng hầu hạ phục dịch hai mẹ con Quyên, thậm chí buổi sáng bé Bông đòi ị, Quyên vẫn vùi trong chăn một cách lười biếng thì Bằng làm cái việc lấy bô và đổ bô thay Quyên. Lạ, kể cả đời chồng trước của Quyên cũng vậy, anh ta bao giờ cũng cung cúc phục vụ hai mẹ con đến tận tụy. Buổi sáng, đi mua đồ ăn sáng theo sở thích cho vợ và con, hôm nào vợ bận (mà hầu hết Quyên luôn bận, bận đi mua sắm, bận tiếp bạn ở xa về, bận làm tóc, v.v…) anh đi chợ nấu ăn thay vợ, giặt giũ, chăm sóc bé Bông và hùng hục kiếm tiền. Tình yêu dành cho vợ và con anh ta thể hiện ở việc kiếm được càng nhiều tiền chơ vợ tiêu xài càng tốt. Bỗng một ngày thật ngẫu nhiên, chồng Quyên đưa bạn làm ăn đi tiếp đãi đúng khách sạn Quyên đang ở cùng bạn tình. Thế là mọi chuyện tung tóe lên cả. Con người hiền lành, nhẫn nại và dịu dàng là thế bỗng chốc trở nên hung tợn và quyết liệt. Cái lúc Quyên nhận ra rằng người chồng bấy lâu mình vốn coi thường không đến nỗi cù lần như mình tưởng thì cũng là lúc Quyên không còn có thể quay đầu lại. Quyên không được chồng tha thứ, khi Quyên đã chà đạp lên những gì thiêng liêng nhất mà anh đã giành cho Quyên.
Quyên như người mất phương hướng trong thời gian dài, sẵn sàng lao vào những cuộc tình chớp nhoáng mà không cần tính đến ngày mai. Cho đến khi gặp Huy. Vóc dáng cao lớn, khuôn mặt điển trai cộng thêm lối pha trò hóm hỉnh như một cú va đập mạnh hất tung trái tim Quyên làm nó đập loạn xị. Quyên tương tư Huy ngay từ lần gặp đầu tiên. Hình ảnh của anh làm cho bóng hình những người dàn ông khác trở nên mờ nhạt. Có được anh rồi Quyên mới lấy lại được thăng bằng chứ trước đó Quyên luôn như người bước hụt, lúc nào cũng thắc thỏm, khát khao đến điên cuồng.
Bằng nói, dạo này anh thấy em nhạt nhẽo và hờ hững làm sao ấy, em ốm à. Quyên không nói gì cả, nằm im vờ ngủ. Lâu rồi, Quyên đã cố giấu cảm giác hờ hững đối với Bằng nhưng người không đủ tinh tế như Quyên chẳng dễ gì che giấu được cảm xúc của mình. Bằng âm thầm theo dõi Quyên, và âm thầm đau đớn bởi có nói gì thì Quyên cũng chối quanh, bí quá thì Quyên lại nói, em là thế, em thích vui vẻ nhưng em luôn cần anh, vẫn coi anh là số một. Rồi Quyên lại xoắn xuýt chiều chuộng Bằng rất nồng nàn. Vừa ghen, vừa giận, nhưng Bằng chẳng thể nào dứt ra khỏi sự cuốn hút đầy ma lực từ Quyên. Những lúc Quyên đến chỗ hẹn với Huy, Bằng cũng đi, phòng trọ chỉ còn bé Bông mới 5 tuổi tha thẩn chơi một mình. Đến quá 10 giờ, cả mẹ và dượng Bằng không về, nó sợ không ngủ được. Nó ôm con gấu bông sang gõ cửa phòng kế bên, nức nở: “Dì ơi cho cháu vô với, cháu sợ ma lắm”. Khi Quyên về, bé Bông đã ngủ say. Cô gái phòng kế bên vẫn chờ cửa, thì thào: “Nó khóc, nói sợ ma, kêu em mở cửa cho nó vào, sao chị đi lâu vậy”. Quyên lúng túng đầy vẻ biết lỗi: “Cảm ơn em, làm phiền em quá”. Quyên ôm con về phòng, cảm giác có tội với con dâng lên ngập ứ. Đêm nào cũng là cảm giác ấy, nhưng sáng ra con bé mở mắt ra thấy mẹ nằm kế bên, nó líu lo thỏ thẻ, cảm giác day dứt hồi đêm đã vơi đi nhiều. Rồi buổi chiều Quyên dẫn con đi chơi, mua cho con một đống đồ chơi, vài bộ quần áo mới, nhìn con tíu tít với những  thứ ấy, mặc cảm tội lỗi trong Quyên tiêu tan hết. Vậy là điệp khúc khóc chờ mẹ lại diễn ra hằng đêm. Đêm nào cô gái phòng bên đi chơi với người yêu thì bé Bông ôm con gấu ra ngõ nhà trọ đứng chờ mẹ. Nhưng rốt cuộc người đưa nó vào không phải là mẹ mà là vẫn cô gái ấy. “Sao chị không đưa bé Bông gửi về bên ngoại, chị đỡ lo mà con chị được an toàn hơn, chị không sợ nó bị bắt cóc à?”. Quyên lại ứa nước mắt, phân bua: “Đêm nào không có nó chị không ngủ được, chị ích kỷ quá phải không em, cái gì cũng muốn”...
 
 
 
 

Ván cờ cuối cùng

07/10/2021 lúc 10:07






B





an tổ chức lễ hội chùa Bút Tháp không thể ngờ giải cờ tướng năm nay lại đông kỳ thủ tham gia đến thế. Lúc đầu dự kiến 48, sau thấy đăng ký đông quá thì quyết định 64, đến phút chót lại thành 96.
          Gần hết buổi sáng ngày thứ nhất, đám đông chợt rẽ ra nhường chỗ cho chiếc xe lăn trên đó chở một thương binh mặt mũi cháy xém sần sùi, cụt cả hai chân và hình như cũng chỉ còn một mắt, bởi bên phải dưới gọng kính đen lõm xuống kéo theo chiếc thẹo dài như chú thạch sùng đánh đu vào đầu gọng. Nhiều người bảo rằng sáng sớm hôm nay đã gặp anh lưỡng lự ở ngã ba chợ Dâu, chỉ cách đây chưa đầy ba ki-lô-mét, không hiểu có chuyện gì mà giờ này anh mới tới. Anh lúng túng trình bày lý do đến chậm, khẩn khoản xin Ban tổ chức cho được tham dự cuộc cờ. Ban tổ chức hội ý nhanh, quyết định câu lạc bộ địa phương rút hai kỳ thủ chỉ để lại tôi đại diện và nhất trí để anh không phải qua đấu vòng nhất thắng. Nhưng anh không nghe, anh bảo đây là thi tài chứ có làm chính sách đâu mà phải ưu tiên.
          Tôi nhìn anh ái ngại, bâng khuâng. Từ trong xa thẳm có cái gì đó lờ mờ tái hiện. Vẻ lúng túng khẩn khoản của anh bất chợt làm tôi nhớ về một người bạn thời đánh Mỹ.
          Ngày thứ ba khi bước vào vòng ngũ, anh được xếp thi đấu với Trần Hưởng, vận động viên Quốc gia người Hà Nội. Cảm giác thân quen cứ tăng dần, nhưng hỏi thì không tiện mà cố mãi tôi cũng không tài nào có thể nhớ ra. Rồi tôi cũng bị cuốn vào những nước cờ hiểm hóc. Quả là kì phùng địch thủ, kẻ chín người mười. Khán giả cũng hồi hộp, bàn tán, tranh cãi ầm ĩ. Sân cờ chật ních ồn ào. Đến gần trưa Trần Hưởng dồn anh vào thế bí. Mọi người lo lắng, dự đoán anh sẽ phải thí cả xe lẫn pháo may ra mới giữ được hòa. Nhưng thật bất ngờ anh lại thoái con mã bẩy rồi tách pháo đấu xe. Chỉ hai nước cờ tình thế đã chuyển xoay, Trần Hưởng bị dồn vào thế lưỡng nan tiến thoái. Cuối cùng anh đã thắng, tôi và anh gặp nhau trong trận chung kết tranh giải nhất nhì.
          Cả sân cờ sôi động chờ đợi cuộc đọ sức quyết liệt giữa tôi và anh. Tôi có phần tự tin là ở sân nhà, nhưng quả thật khi thấy anh đánh bại Trần Hưởng tôi cũng hơi ngài ngại.
          Vào trận anh vẫn đánh pháo đầu nhưng thận trọng củng cố không có ý tiến công quyết liệt như những trận trước. Tôi cảnh giác đóng kín sĩ tượng, rồi lên mã bỉ, chờ thời cơ tiến trận. Đến nước thứ tám, anh bỗng thăng xe bỏ mã. Bên ngoài hò reo cổ động tôi ăn không con ngựa mà những trận trước đối thủ nào gặp anh cũng phải sững sờ bởi bước thiên lý hiểm hóc tài hoa. Tôi cũng phấn khởi ra mặt. Nhưng kinh nghiệm thi đấu và cả kinh nghiệm cuộc đời đã giúp tôi chững lại. Cái buổi chiều mùa thu cách đây ba mươi năm đột ngột hiện ra khiến tôi tự hỏi: Anh là ai?
 
          Ngày ấy, tôi đóng quân ở một làng ven con sông Cầu thơ mộng. Những khi rỗi rãi, chúng tôi mang bàn cờ ra bãi cỏ ven sông. Gió nồm nam lao xao qua cánh bãi, mơn man mặt nước gợn sóng lăn tăn, liệng chao câu quan họ giao duyên, luyến láy. Bàn cờ bày ra. Hậu – người bạn tri âm tri kỉ rất ít nói và vô cùng cẩn thận, tế nhị như một người từng trải, vừa dí con tốt ba thì một cô gái bất ngờ xuất hiện. Tôi và Hậu sững người trước vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm, đôi núm đồng tiền xoáy vào trái tim chúng tôi bao khát khao mơ ước.
          Cô rụt rè, lúng túng:
          - Thưa… Em có việc muốn qua sông. Dưới bến có thuyền mà bác lái lại đi đâu. Nếu hai anh biết  lái em mượn thuyền, nhờ hai anh giúp em một chút.
          Tôi thì dân ven sông Đuống, còn Hậu dân biển Hải Hậu Nam Định, đều là những tay sông nước, đều muốn được lái đò đưa người đẹp qua sông. Nhưng chả lẽ có con đò nhỏ mà cả hai cầm một mái chèo, với lại đằng nào cũng phải có một người ở lại để nếu bác lái đò về còn thưa chuyện mượn thuyền...
 
 
 

Số phận

07/10/2021 lúc 10:07






X





ã hội nào cũng vậy, cũng có sự phân hóa lớn về giàu nghèo, no đói. Người hành khất không chỉ có ở Việt Nam mà trên đường phố của một số quốc gia phát triển vẫn có kẻ chìa tay xin bố thí.

Bây giờ tôi đã được đứng trong hàng ngũ những người no ấm nhưng một thời trước đó sống khá lâu trong đông đảo những người đói.
Tôi tốt nghiệp phổ thông năm 1966 và được gọi vào Khoa văn Trường Đại học Sư phạm Vinh (bấy giờ mang mật danh thời chiến là Trường Văn hóa 12 tháng 9). Khi còn là học sinh phổ thông chúng tôi mơ về trường đại học, ở đó có những giảng đường cao rộng, những khu trường bề thế, sang trọng và chúng tôi “mặc áo sinh viên”. Những điều này chỉ đúng với sinh viên thời nay và hoàn toàn không đúng với chúng tôi thời đó.
Trường Đại học của chúng tôi bấy giờ sơ tán lên huyện Thạnh Thành (miền Tây Thanh Hóa) giảng đường, thư viện, nhà ăn, nhà ở…đều là lán trại nửa chìm, nửa nổi theo kiểu lán trại nhà binh thời bấy giờ, che chắn được mảnh bom đạn nếu bị oanh tạc. Ngay những ngày đầu nhập học chúng tôi đã đối diện với cái đói. Mỗi ngày được hai bữa cơm sáng, cơm chiều. Mỗi bữa hai lưng bát. Nhiều bữa phải ăn ngô bung, sắn xéo thay cơm. Thức ăn đa phần chỉ là canh rau nấu với mỡ hóa học, rất ít khi có thức ăn mặn, thịt lại càng hiếm. Trong sinh viên bấy giờ truyền nhau một định nghĩa: “Thịt là một vật chất cực kỳ quý hiếm, nhỏ hơn cát bụi, mắt thường không nhìn thấy. Nó lẫn trong rau, hòa trong nước, những người số đỏ mới gắp được”…
Bấy giờ chúng tôi đang tuổi cường tráng, ăn khỏe, ăn nhiều. Khi còn ở nhà, nếu không có đủ cơm thì mẹ cũng cho ăn thêm khoai sắn, rau dưa đủ no lòng. Bây giờ chỉ trông vào bếp tập đoàn, cái đói hành hạ chúng tôi suốt đêm ngày. Bụng luôn réo sôi. Người bãi hoải. Chân tay trở nên yếu mềm. Đầu ong ong u u, luôn có cảm giác như sắp bị thổi bay, sắp ngã. Chúng tôi mong được làm quen với cái đói nhưng không thể. Đói vẫn là cảm giác xa lạ, thù địch. Đang giữa giờ học, Thúy Ngân, một trong những người bạn gái của tôi nói nhỏ vào tai tôi: “Đói thế này học quái nào được”. Câu nói của Ngân như châm ngòi sự bùng nổ cái đói trong tôi. Tôi như muốn gục xuống bàn. Nhiều bạn học của tôi đang dùng hai tay chống cằm, đỡ cho cái đầu được ngay ngắn. Ai cũng mong nghe tiếng kẻng báo hết giờ để được ăn cơm. Cứ thế, buổi sáng mong được ăn cơm trưa. Buổi chiều mong được ăn cơm tối. Bưng được bát cơm chan canh vài sợi rau loãng, muốn ăn từ từ thưởng thức cái ngon, cái sướng được ăn nhưng cái đói buộc chúng tôi ăn ngấu nghiến, loáng cái chỉ còn cái bát không. Mắt nhìn kỹ lại cái bát, có hạt cơm nào sót lại, giọt canh nào còn thừa là ăn nốt. Chúng tôi thường đùa: Bát của sinh viên, ăn xong không cần phải rửa.
Trong đời sinh viên có hai đợt tôi và một số bạn được  ăn no. Mùa đông 1968, gà cả bản Cẩm Vân bị dịch. Sáng nào ngủ dậy dưới các nhà sàn đều có dăm ba con gà chết. Dân không ăn hết cho chúng tôi. Suốt một tuần chúng tôi được no đủ cho đến khi con gà cuối cùng của Cẩm Vân bị chết dịch. Ngày nay có vịt gà dịch, trâu bò, lợn lở mồm long móng là tiêu hủy cả đàn, thậm chí tiêu hủy cả một vùng có dịch. Thuở ấy chỉ chôn vào dạ dày, không có chuyện chôn xuống đất. Tôi nghĩ vận động ý thức ăn sạch, ở sạch không bằng dân giàu. Dân giàu dân sẽ biết cách ăn sạch, ở sạch.
Tết nguyên đán 1969, bạn học của lớp tôi về quê gần hết, chỉ còn tôi và Nguyễn Công Danh quê Quảng Trị, Quảng Bình không về được. Các bạn nhận gạo tiêu chuẩn, thổi cơm ăn tất niên và đùm gói ăn trên đường về, không ai quan tâm tới chảo ngô bung, khẩu phần ăn bữa cơm cuối năm của cả lớp. Chị cấp dưỡng nghĩ rằng sẽ không ai ăn chảo ngô đó nên đãi vôi sơ sài. Tối đó tôi và Danh ăn no bụng. Hậu quả là đầu óc quay cuồng, đau thắt ruột, nôn ra mật xanh, mật vàng. Vậy mà ngày hôm sau hai chúng tôi đưa số ngô đó ra suối đãi sạch vôi, giã bột làm bánh, số còn lại sấy khô cất dành, nhờ thế được no suốt tết...
 
 
 

Một chút tháng tư

07/10/2021 lúc 10:07






L





ớp tiếng Đức luyện nghe nói học năm tháng tuần ba buổi. Nhì nhằng cũng gần kết thúc. Vào tháng tư. Toàn những kẻ cần mua chữ mua bằng đặng vào các thứ cửa cho trót lọt sau khâu “đầu tiên”. Tối thứ sáu này, buổi học cuối cùng chia tay thầy. Có “ngài” bây giờ mới biết tên thầy giáo. Thầy Thanh. Cái tên chung chung thế không nhớ cũng phải. Lớp có 28 “mống” nhiều nơi tụ về. Nhiều nhặn gì nhưng cũng không ai nhớ ai trừ nhóm ngồi gần nhau. Ông thầy trẻ tuổi có cái khác người là bắt trò - dù trò đóng tiền mua chữ - cũng phải tuân theo kỉ luật lớp. Trừ những lí do không thể khắc phục, tất cả phải tới lớp đúng ngày. Đúng giờ. Ai ngồi đâu hôm sau ngồi lại chỗ đó. Cho tôi thấy mặt. Tôi bán chữ nhưng tôi cũng là thầy. Mong các anh chị “đại xá”!
Thầy dạy tiếng Đức. Nhưng thầy hay xài tiếng Nôm. Tiếng Hán. Hay trích dẫn ca dao, thành ngữ. Có vẻ là một ông Tây. Các ông Tây hay mê văn hóa xứ người. Bản sắc văn hóa dân tộc xứ người ông Tây thường nắm rõ hơn người bản xứ, lại thích chòi xứ Tây chê xứ mình.
Có một cô gái trắng trẻo đeo kính nghe thầy giảng, hay nhìn thầy và phân tích về thầy như thế. Dù hay theo học các lớp đóng tiền ngắn hạn, cô gái này không bỏ được thói quen quan sát. Chấm điểm. Và lặng lẽ một mình bình giá trị một con người. Cô này tên Yến. Học năm cuối một trường gọi là đại học. Đầu vào khá căng do ít ai để ý học lực để mà kiếm sinh viên giỏi cho trường. Mà cũng không dễ tìm ra chỗ để “trao và múc”. Nhưng Yến vào được vì có người họ hàng tìm ra kẽ hở. Vào rồi ghi tên rồi yên tâm đóng tiền học ở ngoài để lấy kiến thức thật còn trường thì cứ để đấy thể nào cũng ra. Giống như nhập cảnh vô nước tư bản. Cực khó. Nhưng ra thì thoải mái ai giữ làm gì cho chiếm chỗ mất cân bằng mất an ninh?
Cả bọn gấp vở hỏi nhau mấy hôm nữa buổi học cuối “ấy” có đến không? Sao lại không nhỉ? Buổi cuối cùng cũng học cơ mà! Mỗi chữ mỗi tiền. Khiếp quá. Tính toán chi li thế. Vét cạn chữ của thầy vì xót mấy đồng lẻ hả tên kia! Phải rồi. Còn cậu thế nào? Cả lũ quay nhìn Yến. Cô gái đeo kính trắng trẻo tính tình rụt rè có hai bàn tay nuột nà như tay công chúa truyện cổ tích. Yến bảo phải đến học còn chào thầy chứ. Mình nên đóng góp mua tặng thầy món quà gì đi.
Cả nhóm ngớ ra như bị gió thổi thốc vào mặt. Tuấn giơ hai tay lên trời: tớ không đâu đấy. Xong cua này tớ ghi tên cua khác. Học tiếng Tây Ban Nha. Chỗ làm này tớ chấm rồi, chỉ cần chào hỏi tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha. Thầy nhiều vô khối quà sao cho xuể. Vả lại xa xỉ thời gian. Tớ không nhé!
Tôi đồng ý 200 phần trăm. Học ngoại ngữ buổi tối như đi mấy cuốc xe ôm đến nơi ông lái mặt vuông mặt dẹt thế nào ai để ý, quà không thành vấn đề kinh tế, quà thời này rẻ như bèo hoa dâu nhưng thời gian thì tốn lại phải à ơi tình cảm nổi cả da gà ai mà kham nổi.
Yến nhìn gã kế toán công ty trách nhiệm hữu hạn xuất thân dân sông nước, nghe nói quê gã không có nhà xí dù xây nhà cả tỉ cũng rủ nhau đi ỉa bờ sông cả lũ ngồi như vượn. Gã nói không bao giờ chấm câu. Sống cũng chả thèm dừng nhìn. Đi xe máy như uống thuốc lắc lao ra cổng là phóng sống chết mặc bay.
Trời đang mưa. Gã kế toán nói không chấm câu đội mưa đi luôn. Chắc phóng xe đến chỗ nào đó rồi ngồi chứ công lên việc xuống gì. Cái thói phóng xe lấy được của gã như bệnh dịch lây lan cộng đồng không kiểm soát nổi. Chả có việc gì cũng phóng. Đến nơi ngồi không. Các con đường thành phố như lối đi của bọn kiến gió. Rối rít tít mù nhưng chả làm nên trò trống gì sất. Xã hội rối như nắm xơ rửa bát… Yến ngồi yên lặng ngắm nghe và bình giá trị. Thói quen… Chàng trai gầy gầy tên Vũ ngồi cạnh Yến từ buổi đầu. Mặc áo của đội Arsenal những hôm trời nóng. Lạnh mặc áo khoác cũng mang logo của Arsenal. Đội bóng ruột. Nghe nói các cổ động viên hay tụ họp huy hoàng rực rỡ như đại hội cỡ quốc gia. Chàng này ít nói. Tẩm ngẩm mang một tình yêu say đắm gì đó. Không nói ra sợ người ta cười cho là cái chắc. Nghe Yến nhắc chuyện nên tặng quà cho thầy giáo tiếng Đức cậu này không phản đối cũng không gật...
 
 
 

Có một chú cu gáy

07/10/2021 lúc 10:07

Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ
                                    (Đi giữa đường thơm - Huy Cận)





S





o với Bé - người thì Bé - cu gáy tôi hơn đứt về mọi mặt. Này nhá! Tôi tự mổ vỏ trứng chui ra, có đâu như Bé-người cứ nằm ỳ trong bụng mẹ khiến mẹ mình phải vật vã, kêu la, rặn mãi mới chịu ra cho. Lại nữa, vừa chào đời là tôi đã ngồi ngay dậy biết há mỏ cho bố mẹ mớm thức ăn. Còn Bé-người thì phải nào là ấp ủ ư, nào là bồng bế ư, đến là lôi thôi! Không như Bé-người sau một năm mới lẫm chẫm đi, Bé-cu gáy tôi khoảng bốn tuần là đã đủ lông đủ cánh. Chỉ hiềm nỗi cái chuyện tập bay cũng hơi phiền. Phải tập nhún chân, phải tập đập cánh. Ban đầu là đứng trong tổ; rồi ra đứng trên cành cây chuyền từ cành nọ sang cành kia cách quãng ngắn. Nhẽ ra là phải tuần tự như thế. Tôi không được ngoan như chị tôi. Bước ra khỏi tổ tập tành qua loa là tôi đã vẫy cánh đạp chân lao vào khoảng không. Ôi chao! Cái thân bé bỏng của tôi nặng ơi là nặng. Tôi chới với, đâm hoảng, đập cánh loạn xạ, chấp chới rồi hạ mình lên đám cỏ rậm, đúng ra là thả mình chứ chẳng phải là hạ. Tôi nhìn quanh thấy vướng vít, lộn xộn không như khi từ trên cao nhìn xuống. Tôi chợt nghe mấy tiếng “meo, meo” từ xa thoảng lại theo hơi gió. Mẹ chim của tôi vội sà xuống cạnh tôi. Bà gù nho nhỏ trong cuống họng an ủi, động viên tôi. Bà cất mình bay lên một cành cây thấp gần bên làm mẫu cho tôi. Tôi ngó lên, sao mà cao vậy! Tôi rún chân nhảy lấy đà và quạt cánh phành phạch, chưa lên tới đích đã như bị ai kéo xuống. Tôi loạng choạng sà xuống đất. Mẹ chim của tôi lại nhảy xuống khích lệ tôi. Đúng lúc đó, có tiếng sột soạt khá gần rồi một vật gì vằn vện đen trắng có bốn chân, to quá là to, hơn cả mẹ con tôi gộp lại, tôi chưa từng thấy bao giờ, hiện ra. Hắn giương cặp mắt xanh lè nhìn chúng tôi, chân hơi khuỵu xuống, cái đuôi ngo ngoe. Mẹ chim của tôi xù lông chừng để cho to tợn trong mắt đối thủ, phần thân trước hơi chúi xuống, vươn cổ nhìn con vật chằm chằm. Tôi sợ bà lao thẳng vào hắn; nhưng không, bà xê dịch vần quanh hắn. Còn hắn thì rón cẳng, chuyển mình rê theo bà, rồi bất thần nhảy chồm tới. Mẹ chim bay vụt lên. Hắn quơ chân trúng đuôi bà thì phải, mấy cái lông lả tả rơi ra. Con mèo, như con người vẫn gọi hắn, gào lên một tiếng để xả tức hay để ra oai chẳng biết, đảo mình hướng tới chỗ mẹ chim vừa đậu xuống. Bà vẫn ở trong tư thế sẵn sàng nghênh địch. Đối thủ chộp lần thứ hai. Lần này, mẹ chim cất mình bay khi kẻ thù vừa dợm nhảy. Bà né tránh con vật xa hơn lần trước. Hình như bà có ý dụ hắn ra xa chỗ tôi. Hắn ngó theo bà rồi quay lại phía tôi. Hắn lừ lừ tiến lại. Chẳng kịp nghĩ ngợi, đắn đo gì, tôi hẩy mạnh đôi chân, đập mạnh đôi cánh vụt bay lên. Sức lực ở đâu dồn đến, thân tôi nhẹ hẳn. Tôi đậu được lên cành cây như thế nào tôi chẳng nhớ nữa. Ngoảnh nhìn xuống, tôi thấy con vật ác đang nghếch nhìn theo tôi, lưng gù, đuôi quắp, một chân trước còn giơ lên như vẫy chào. Hẳn là hắn vừa làm một cú vồ trượt. Sau lần hút chết ấy, tôi chăm chỉ tập bay chuyền còn hơn cả chị tôi. Suýt nữa tôi thiệt thân đã đành mà còn làm hại mẹ tôi.
Đã đến lúc chúng tôi, chị tôi và tôi, mỗi người sống tự lập. Họ nhà cu gáy chúng tôi thường sống tại những vùng có cây cao và có nhiều tầng cành lá. Đặc biệt là các vùng quê có vườn cây, có ruộng lúa. Khốn một nỗi, con người cứ như là kẻ phá hoại truyền kiếp đối với loài chim ra sức gọt trọc các rừng cây và phá vườn để thay vào đấy những thứ mà loài chim chẳng trông cậy gì được; đến bọn chim sẻ có khi cũng chịu. Nhiều vườn còn giữ được thì họ chặt hết những cây cao và trồng những cây thấp tè. Họ cần những cây sớm cho quả. Tốt thôi! Nhưng họ phải dành lại cho loài chim chúng tôi đồi cây, rừng cây mà chúng tôi có thể sinh sống được chứ. Thử hỏi mặt đất này mà thiếu vắng tiếng chim thì còn ra làm sao!...
 
 
 

Trăng làng cát

07/10/2021 lúc 10:07







S





au lễ khánh thành cầu Cửa Tùng, Trần Tam không theo đoàn ra Hà Nội ngay mà xin phép được ở lại thêm một thời gian nữa. Nhưng ông không nghỉ tại khách sạn bên bờ bắc mà lững thững một mình xách hành lý đi bộ qua cầu, sang bờ nam, tìm một phòng trọ bình dân ở một làng chài ven biển xin nghỉ lại. Có vẻ như ông rất thông thạo với cái làng chài có tên là làng Cát nằm ở cửa sông này.
Chủ phòng trọ là một cặp vợ chồng người làng Cát, cả hai đã suýt soát tuổi ba mươi. Họ rời làng ra làm dịch vụ nhà nghỉ ở đây khi cầu Cửa Tùng và tuyến đường nối hai huyện ven biển chỉ mới bắt đầu được khởi công xây dựng. Phòng trọ nằm ngay ven đường, tuy chưa lấy gì làm khang trang nhưng rộng rãi, thoáng mát. Đặc biệt ở đây còn có những bãi cát thoai thoải, rợp bóng cây xanh, vừa yên tĩnh vừa trong lành rất hợp với những người tuổi tác như ông. Trần Tam vẫn có thói quen mỗi lần đi công tác, hay đi du lịch, nghỉ mát cùng gia đình, bè bạn, ông thường tìm những phòng trọ bình dân để nghỉ. Với ông, đây không phải là vấn đề tiền bạc mà cái chính là ông không muốn phải giam mình trong bốn bức tường ở những khách sạn cao tầng, rồi lại phải leo lên trèo xuống cầu thang mỗi khi có việc. Đó là chưa kể đến bao nhiêu phiền toái khác mà ông từng được nếm trải. Một phòng trọ bình dân, tất nhiên đừng tồi tàn quá, nhưng đáp ứng được nhu cầu nghỉ ngơi trong một ngày, thậm chí vài ba ngày, một tuần, đối với ông là lý tưởng hơn cả. Ở đó mọi cái đều hài hoà, gần gũi, nó khiến ông luôn luôn được tự do, thoải mái. Ở đó ông còn cảm nhận được mình lúc nào cũng gần gũi với thiên nhiên, trời mây, non nước, tha hồ mà đắm mình trong suy tư và tưởng tượng. Cũng còn một lý do nữa để ông tìm đến phòng trọ bình dân nơi làng Cát này.
         Hôm qua, với tư cách là chuyên viên cao cấp ngành cầu đường, được tháp tùng Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải vào công tác, ông đã có một buổi chiều “chơi hết mình” chia vui với đồng bào địa phương khi cây cầu được chính thức đưa vào sử dụng nối đôi bờ nam - bắc dòng sông một thời chia cắt đất nước. Vốn tính trầm lặng, ít bia rượu, nên chiều ấy, Trần Tam đã ngà ngà say. Say nhưng tỉnh và vui. Ông ra đứng một mình ở bãi tắm, mặc cho sóng gió vờn trên da thịt để được thư giãn với đất trời và thưởng ngoạn cho hết tất cả những gì mà thiên nhiên đã ưu đãi ban tặng cho miền đất này. Trong ráng chiều, biển Cửa Tùng thật đẹp. Trên cương vị công tác của mình, Trần Tam đã từng đi nhiều nơi, đã từng đến nhiều bãi biển đẹp của đất nước, nhưng ông đặc biệt yêu thích vẻ đẹp hoang sơ ở đây. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời, biển cả, không cần lắm sự bài trí, sắp đặt của con người. Một vẻ đẹp thuần khiết, trắng trong, tựa như vẻ đẹp của người con gái vừa bước vào độ tuổi trăng tròn. Cảm thấy chưa hài lòng trước những gì mình muốn, Trần Tam đã mấy lần qua lại hai bên bờ sông để được ngắm nhìn cây cầu từ nhiều góc độ khác nhau. Quả là một cây cầu tuyệt vời tọa lạc ngay bên cửa biển. Có lẽ, trên đất nước này, ở mọi con sông, chưa từng có một cây cầu nào lại gần với biển, sát sạt với biển như cây cầu này. Với con mắt của một kỹ sư có thâm niên hàng chục năm lăn lộn trong ngành cầu đường, ông thấy cầu Cửa Tùng là một cây cầu vừa vững chắc vừa duyên dáng bởi những đường nét cấu trúc hết sức đặc biệt. Trong ánh bình minh khi mặt trời vừa ló rạng, cây cầu hiện ra cong cong như một nét vẽ trên vành mi thiếu nữ. Cũng có lúc Trần Tam lại thấy cây cầu nghiêng nghiêng như một mảnh trăng bên cửa biển. Ấy là lúc hoàng hôn mới chỉ kịp buông xuống, mặt biển còn trong cảnh tranh tối tranh sáng, trăng còn trốn đâu đó trong những đám mây chưa vội ló ra. Ngắm nhìn cây cầu, nghĩ về vầng trăng, ông lại nhớ đến Nguyệt, cô du kích làng Cát năm xưa. Ừ, mới đó mà đã mấy chục năm trôi qua. Thời gian thật quả như người ta nói, chẳng chờ đợi ai bao giờ. Không biết bây giờ Nguyệt có còn ở làng Cát không? Cô ấy sẽ vui mừng đến mức nào khi mơ ước của cô ngày xưa bây giờ đã trở thành hiện thực. Một cây cầu hiện đại, đẹp như một công trình du lịch đã vắt mình sang sông, sừng sững tọa lạc ngay chính tại quê hương làng Cát của cô. Trần Tam còn nhớ trong một lần bị thương, phải rời làng Cát sang bờ bắc, khi chèo thuyền đưa ông qua quãng sông này, Nguyệt đã từng mơ ước: “Anh Tam ơi, sau này nước nhà thống nhất em mong sẽ có một cây cầu thật to, thật đẹp bắc qua cửa sông này. Ngày ấy, khi vào thăm quê em, các anh sẽ chẳng phải lội sông khổ cực như bây giờ nữa đâu”. Hôm đó ông đã trả lời Nguyệt rằng, chẳng phải đợi đến ngày nước nhà thống nhất đâu, mà chỉ một thời gian rất ngắn thôi, khi lành vết thương, ông sẽ trở lại làng Cát, sẽ gặp lại Nguyệt. Nào ngờ từ ngày ấy đến nay coi như biền biệt.
         Đêm ở làng Cát thật yên tĩnh. Một sự yên tĩnh không phải dễ dàng tìm thấy nơi cửa biển được xem là vùng đất đang trỗi dậy thay da đổi thị từng ngày với cơ man nào là nhà hàng, khách sạn, dịch vụ du lịch giải trí; rồi bến cảng, âu thuyền, khu chế biến thuỷ hải sản…đang đua nhau mọc lên như nấm. Ở đây, ven ngôi làng nhỏ này chỉ có tiếng sóng biển là lúc nào cũng ồn ào, náo nhiệt, lúc nào cũng trầm trầm, bổng bổng không một phút giây ngơi nghỉ. Càng về khuya tiếng sóng càng dạt dào, sâu thẳm. Rồi gió. Gió mênh mang, phóng túng. Gió vô hồi kỳ trận. Gió tạo nên những bản nhạc thiên nhiên réo rắt, vi vu trên những ngọn cây khắp đồi cát ven biển. Ánh trăng ở đây cũng như sáng hơn, trong hơn. Mặt cát phẳng lỳ ròng ròng ánh trăng lan toả. Biển cũng sáng, sáng như đang được thêu dệt bởi hàng triệu triệu chuỗi đăng-ten trên mặt sóng và kéo dài cho đến hết tầm mắt.  Đất trời, non nước, trăng sao như được hoà làm một, lẫn vào nhau, tạo nên một thiên nhiên làng Cát đầy quyến rũ....
 

Mai vàng ở chốn trần gian

07/10/2021 lúc 10:07






C





ây Mai kiểng ấy có tự bao giờ không ai biết cụ thể, chỉ biết là lâu lắm, từ đời cụ kỵ nào đó. Người sở hữu cây Mai kiểng ấy bây giờ là hai ông bà già, không có con cái. Họ già tới mức đứng bên cạnh cây Mai kiểng lâu niên, người và vật bổ sung cho nhau, sần sùi, mốc thếch, trông rất xưa cổ.
            Hai ông bà già ấy sống trong một ngôi nhà cổ, chính xác hơn là trong một gian nhà cổ. Trước đây ngôi nhà ấy ba gian, hai chái, cột rường bằng gỗ lim, rui mè đòn tay bằng gỗ gụ. Qua nhiều năm tháng gỗ lên nước đen bóng. Sân nhà lát bằng gạch vuông. Nhà xây bằng gạch to bản. Mái lợp bằng ngói vẩy cá. Trong chiến tranh ngôi nhà bị trúng bom tan sập mất hai gian. Hai ông bà nhờ người thu vén những gì còn lại, tu sửa một gian, ép về góc phải nền nhà để sống. Từ đó cái sân lệch về một phía. Hai ông bà không lấp và cũng không cho ai lấp cái hố bom đó. Nó cứ toang hoác, rậm rì những cỏ. Mùa mưa, hố bom có nước, ếch nhái đến ở ì ọp cả đêm.
            Hai ông bà sống bằng rau dưa, hoa trái bòn nhặt ở trong vườn, bằng nguồn hảo tâm của làng xóm. Không ai bầu và hai ông bà cũng chẳng bảo ban ai cái gì nhưng người làng xem như già làng, trưởng bản. Họ kính nể bậc cao niên, kính nể phong cách sống Trúc Mai, ngưỡng mộ huyền thoại cây Mai già.
            Cây Mai ngự trên một chậu sứ đã rạn nứt nhiều chỗ. Hai ông bà đã dùng nhiều sợi thép nhỏ ràng buộc lại, giữ cho cái chậu khỏi rã ra, rơi rụng xuống. Gốc Mai to nằm nghiêng như con rồng ngước mắt về phía cao xanh. Những cành Mai uốn lượn như vây, như râu, như chân, như đuôi, sống động. Cành và lá phía trên vần vũ như mây, bảng lãng như sương. Những bông hoa Mai hiếm hoi đậu vào cành đúng chỗ, lóe những điểm vàng, đĩnh đạc và kiêu hãnh như khí tiết nho gia, như nhân cách văn sỹ.
            Đời trước đã để lại cho ông bà chậu Mai kiểng ấy, nhưng trước đó nữa cây Mai đã hiển hiện thế nào? Trong dân gian mỗi người nói mỗi cách.
            Có người nói rằng: Cách đây chín đời, ông tổ của ông bà già bây giờ sống trong cung vua, chăm sóc cây cảnh vườn thượng uyển. Thời ấy có loạn, bọn kiêu binh truy sát vua, ông tổ đã xả thân cứu. Sau loạn, vua ban cho ông tổ cây Mai đẹp nhất vườn Thượng uyển để trả ơn. Dòng họ ông có cây Mai từ đó, xem như biểu hiện của lòng trung quân ái quốc truyền nhau từ đời này qua đời khác giữ gìn.
            Có người lại nói: Một hôm ông tổ đi rừng bị voi đuổi. Đáng ra phải chạy xuôi núi ông lại leo ngược lên vì vậy bị voi dồn lên tận đỉnh, khi đến đường cùng bất chợt ông nhìn thấy cây Mai này, cành lưu thủy của nó như một cánh tay  mềm mại đầy bông sắc vàng chỉ xuống phía dưới núi bên kia. Ông nhìn xuống thấy dốc thẳm và hiểm trở quá nhưng nghĩ là thánh thần đã hiển hiện chỉ đường thì phải lao xuống, thế là thoát. Để tạ ơn trời đất đã cứu sống cha ông mình, con cháu làm lễ hậu, đốt vàng mã, thắp hương trầm thỉnh cây Mai về chăm sóc.
            Tin đồn về cây Mai quý đến tai vua. Vua triệu gia chủ thỉnh Mai tới. Mê hồn trước cây Mai diệu kỳ nhà vua muốn mua lại với giá bao nhiêu tùy gia chủ kể cả việc đổi toàn bộ cây cảnh của vườn thượng uyển hoặc một xe ngựa đầy bạc vàng. Gia chủ thưa "Đã có lời nguyền với trời đất, Mai còn người còn, Mai mất người mất xin vua được giữ lại cây Mai". Rất may là nhà vua hiểu đạo lý, trọng lời thề, biết trời đất đã ban Mai cho người xứng đáng nên thưởng thêm vàng bạc cho về. Chỉ hẹn là mỗi mùa xuân đến gia chủ phải rước cây Mai tới hội hoa xuân để triều đình và toàn dân được thưởng ngoạn. Gia chủ: Thưa, vâng! Số tiền vua thưởng ông tổ dựng được ngôi nhà cổ bây giờ còn lại một gian ông bà già đang ở.
            Từ đó xuân năm nào, dân đô thành cũng được chiêm ngưỡng cây Mai ngự trên một chậu sứ lớn ở vị trí cao sang nhất của hội hoa xuân. Vào thời hiện đại, em ruột tổng thống là quan đứng đầu xứ Trung Kỳ quá mê cây Mai đã mượn nó vào cung để thưởng ngoạn một thời gian nhưng dùng dằng không muốn trả. Tổng thống biết ý chú em muốn chiếm đoạt phải quở trách: "Vua chúa ngày xưa thèm cây Mai đó rỏ cả nước bọt nhưng phải bấm bụng trả lại, chú chiếm đoạt nó thì mình không bằng vua chúa xưa, nói dân không nghe"...
 
 
 

Hai người đàn bà

07/10/2021 lúc 10:07






M





ột căn phòng âm âm tối, gác tư một khách sạn hạng thường của Sài Gòn vào một năm hai ngàn có hai người đàn bà tuổi trạc năm mươi đang lăn ra ngủ trong tư thế chỉ có thể nói là hoàn toàn tự do, ngủ không cần biết tới ai, bất chấp tất cả. Họ nằm sõng sượt giữa đống mền ga xô lệch, đầu mỗi người một hướng, đùi vế gác lên nhau, váy áo bùng nhùng, vai trần ngực trần, vú vê ngồn ngộn. Mấy mảnh chăn đơn hờ hững nửa trên giường nửa dưới sàn màu sắc loang lổ vằn đen vằn vàng như lốt hổ càng làm cho căn phòng tăng thêm vẻ dữ dằn.
Ngoài kia là một thành phố đang trôi nổi trong cái nắng nhiệt đới trưa hè, nắng từ lúc vừa mở mắt, nắng suốt ngày và gay gắt như trút lửa. Bên dưới khung cửa sổ che rèm nơi họ trú ngụ là một con phố hẹp, đám đông đang tắc nghẹt bởi một vụ va quệt nào đó vừa xảy ra. Nó rất hay xảy ra, đã là chuyện thường ngày trên khắp nước, bảo đột ngột cũng phải mà bảo chẳng có gì là đột ngột cũng phải. Tiếng người tiếng còi xe, tiếng còi cảnh sát dọn đường huyên náo đã đánh thức đôi bạn, họ vùng dậy ngồi chụm đầu vào nhau, tóc tai lòa xòa che phủ khắp mặt, cả hai cười rúc rích, kéo mền chăn đắp vội lên đùi. Hình như mọi ngõ ngách của thành phố rộng lớn này đều đang sôi sục, chỉ khoảng không gian nho nhỏ của họ là vẫn yên ả với cái lạnh của một ngày đông. Mà phải là một ngày chớm đông Hà Nội mới có nổi cái hơi may lành lạnh rất dễ chịu đó.
Họ thay nhau cất tiếng, câu chuyện nhẩn nha nhát gừng và không mấy rành mạch.
Tao nhớ một đêm mưa sầm sập, hình như là có mưa đá, mái lá gồi ký túc xá sinh viên rung bần bật như lên cơn co giật, rồi giột lách tách, giường trên ướt át, tao mò mẫm tụt xuống nằm chung với mày. Hai đứa nằm kiểu úp thìa như hai con tôm co ro trên mảnh giường chật, đôi vai mày nhòn nhọn chỉ thấy xương là xương, tấm lưng mỏng cứng như cái que. Mày thường nghĩ ngợi những gì nào ai biết, chỉ thấy hay thở dài, ngủ sâu cũng thở dài, đời vất vả là phải. Giờ thì đều già móp cả rồi, hai đứa đã hóa hai con mẹ mướp, được cái mày vẫn gọn gàng như thuở nào, chỉ tao là sồ đại ra nom rất khó coi. Được là mẹ mướp còn may, tao đang lo khéo chúng mình sắp hóa hổ, là hai con hổ cái, nghĩ cho cùng nếu không hóa hổ cũng khó sống nổi, sao đời nó lại đưa đẩy tụi mình đến nông nỗi này nhỉ. Mày thừa biết ông già tao vốn là một bác sĩ người Pháp, tốt nghiệp y khoa Paris ông làm đơn xin qua Đông Dương, còn bà già năm ấy cũng học xong trường y tá ngoài Hải Phòng, về làm việc dưới quyền ông ở một bệnh viện hàng tỉnh. Mấy năm sau họ thành vợ chồng, ông già ngoài ba mươi còn bà ngoài hai mươi, hơn kém nhau trên chục tuổi. Tao, một con bé trong mình mang hai dòng máu, từ nhỏ đã bị trẻ quanh xóm gọi là con tây lai, con đầm lai. Nghe mãi thành quen, thì mình đúng là thế, chứ có làm sao. Rồi con đầm lai đàng hoàng vào ngồi trong khoa hóa Đại học Sư phạm Hà Nội, được xem là một trong mấy hoa khôi của Khoa, hoa khôi xó bếp nhưng cũng vui chán. Đã có nhiều anh ngấp nghé, thư từ tình ý gửi đến không ít, một vài người không ra gì, nhìn chung là tử tế, hiềm một nỗi chiều cao đều muốn ngắn, trong khi ấy tao cứ lớn vổng lên, rất bực. Vẫn một khổ giường ấy, chúng mày nằm thì vừa mà tao thì đã thừa tay thừa chân. Tao lo mình khó lấy chồng, là vì tao không thể chịu nổi cái cảnh chồng thấp vợ cao, nom cọc cạch thế nào. Tao thầm cầu trời cho mình được gặp một người đàn ông dù mình có cao lớn đến đâu thì đứng với nhau anh ấy vẫn phải nhỉnh hơn mình một chút, được tới ngang vai anh ấy là hay nhất,cùng lắm là ngang tai. Như thế mỗi khi giắt nhau ra đường mới không ngượng, thế là đẹp đôi, tao thường chỉ nghĩ đã là vợ chồng thì suốt ngày chỉ có rủ nhau ra đường. Vào năm học cuối có một người đặt vấn đề với tao, tạm được, bảnh trai đàn nhạc giỏi, ăn nói ngọt ngào lại biết chiều chuộng săn sóc, thoạt đầu tao đã mừng, nhưng vài tháng sau tao chán, anh chàng có tật vừa chuyện trò vừa cắn móng tay, cắn liên miên hết ngón này qua ngón khác, mà lại hay nhớ ngày tháng năm sinh quê quán của từng người, tự xem đấy là một dấu hiệu của trí tuệ, sinh viên Khoa toán có khác, nhà toán học tất nhiên phải là người phi phàm, chính xác và lạnh lùng như một cái máy nhớ vậy. Tao mới thở dài bảo, chia tay thôi, em không thể ra đường với một người toàn những ý nghĩ lẩn mẩn, cho dù anh có một chiều cao khá lý tưởng. Hóa ra chiều cao chưa phải là tất cả, hình thức bề ngoài vẫn chỉ là cái đinh mà thôi. Chưa đầy một tuần lễ thì có chuyện chẳng lành, sớm ấy sắp lên lớp, anh lớp trưởng gọi tao ra hiên thì thầm, cô phải bỏ tiết đầu lên gặp tổ chức nhà trường, việc gì tôi không được rõ nhưng đây là việc gấp đấy. Ngồi trong phòng tổ chức lúc đó chỉ có một người, áo sơ mi trắng quần ka ki xanh, rất sạch sẽ và tươi sáng, nhưng giọng thật lạnh lùng. Anh ta mời tao ngồi vào ghế và nói luôn, có nguồn tin chính xác cho biết cô là Pháp kiều, ông cụ thân sinh của cô là một người Pháp chứ không phải người Việt, ông bố ghi trong lý lịch của cô chỉ là ông bố dượng. Vậy cô phải về làm lại lý lịch của mình cho rõ ràng, lý lịch không rõ ràng trong sạch, e rằng sẽ ảnh hưởng tới việc thi tốt nghiệp sắp tới. Tao sợ run người, chạy về buồng vừa khóc vừa thu dọn sách vở quần áo, chăn màn, nhét tất cả vào một cái rương gỗ, hồi đó rất hiếm va ly như bây giờ, mỗi đứa chúng mình chỉ có một cáI rương như thế, đi vắng lâu thì khóa lại, đặt ở đuôi giường. Cũng không kịp nhắn lại với mày một tiếng, tao chạy ra Cầu Giấy nhảy xe điện về luôn trên phố. Cầu Giấy dạo đó là bến đậu cuối cùng của tuyến xe điện từ Bờ Hồ xuống. Khách xuống nhiều mà khách lên cũng nhiều. Tao là một khách quá quen thuộc với tàu điện, len lên sớm nhưng không ngồi vào ghế mà tìm một góc cuối toa, đứng đó quay mặt vào ô cửa nhìn ra đường, hai mắt đỏ hoe. Xung quanh người người vẫn đang lên rất đông, lao xao chen chúc, họ hớt hải gọi nhau tìm một chỗ ngồi dọc toa. Tao đứng bên mấy cái sọt rau cỏ thừng chão quang gánh. Xe điện leng keng chuyển bánh, vừa chạy vừa chao như chao võng, có lúc vào khúc cong nó lượn mình lướt đi nghiêng nghiêng đến hốt. Ông già gày nhom với một chiếc mũ cát két bẩn tay cầm tập vé cặp trong một cái ví da đen đúa sặc mùi mồ hôi, cái ví có thể mở ra gấp lại như một quyển sổ. Khi ông ấy tiến lại gần tao chợt giật mình kinh hoàng vì nhớ ra là mình không mang theo tiền. Có chết không cơ chứ. Ngẩng đầu lên thì đứng ngay sau mình lúc đó là một anh bộ đội. Anh ấy vịn tay lên cái sà trên nóc toa, người lắc lư lắc lư. Cao, cao lắm, cao hơn tất cả những người đàn ông cao mà tao từng gặp từ bé đến giờ. anh ấy vừa cười vừa xòe ra hai tấm vé nhỏ như hai cái tem thư, vé mua rồi. Tao ngớ ra như muốn hỏi, sao nhanh thế, mua từ lúc nào mà nhanh thế, mà sao anh biết em không mang tiền. Nhưng tao chỉ bật lên một tiếng cười...
 
 
 

Ấo tà nguyệt bạch

07/10/2021 lúc 10:07

Bước em thênh thang
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài…
            (Ngày xưa Hoàng Thị- Phạm Thiên Thư)





T





ắc xi từ Sân bay Phú Bài vừa bắt đầu rẽ vào thành phố thì trời bỗng dưng đổ mưa. Anh đẩy nhẹ tấm kính mờ hơi nước, đưa tay ra ngoài hứng những giọt mưa bụi hiền lành giăng giăng nhẹ nhàng. Thật kỳ lạ, dường như Huế, anh và mưa có một mối liên kết nào đó thì phải, có vậy nên mười mấy năm dằng dẵng cách xa, ký ức trong anh về Huế đều gắn liền với những cơn mưa. Mưa mù trời ngày anh bở ngỡ từ đất Quảng vào Huế thi Đại học. Mưa lênh láng, triền miên làm bức tường vàng nhạt của ký túc xá vào mùa đông rêu mốc, loang lổ, cây bàng lá đỏ trơ trọi, già nua.  Cảnh vật hắt hiu khiến nỗi nhớ nhà của đám sinh viên trẻ thêm phần quay quắt. Mưa làm ướt  tà áo trắng mỏng manh của Hằng, khiến nàng run rẫy, co ro mỗi khi anh chở nàng trên chiếc xe đạpcuốc, qua cầu Phú Xuân, rẽ Cửa Thượng Tứ để vào Thành Nội. Vẫn hằn nguyên trong anh ánh mắt Hằng trong veo như mặt hồ buổi sớm, làn môi mơn mởn hơi nhợt tím vì lạnh, còn đôi chân nhỏ xinh thì thật tinh nghịch, cứ đong đưa, đong đưa theo những guồng xe đạp quay đều. Và giờ đây, sau mười mấy năm trời, cuộc tái ngộ của anh với Huế lại bắt đầu bằng một cơn mưa.          
- Huế vẫn rứa, không thay đổi chi hè? Anh lẩm bẩm khi ngắm nhìn mái phố liêu xiêu, nhỏ bé vùn vụt lướt qua ô cửa tắc xi. Sông An Cựu nắng đục mưa trong cổ xưa như thời gian. Xa xa chuông Dòng chúa cứu thế phía đường Nguyễn Huệ thong thả đổ một hồi dài.
            -  Không mần răng hiểu nổi mấy ông Nhà nước. Sài Gòn, Đà Nẵng đó, tràn ngập cao ốc hiện đại, nhìn sướng con mắt. Rứa mà Huế mới xây khách sạn Tân Hoàng cung, Báo chí đã phản đối ầm ầm nên Thành phố ni mãi lạc thời, cũ kỹ cũng đúng thôi. Anh lái tắc xi trẻ măng quay sang nhìn anh bắt chuyện.
Anh mỉm cười trước lý lẽ ngây thơ của anh bạn trẻ, mắt mơ màng dõi theo những con phố thân quen. Trừ vài toà cao ốc kệch cỡm mới xây, Huế hầu như vẫn như xưa khiến anh ngỡ như mới rời nó ngày hôm qua chứ không phải đã lâu lắm rồi.
- Cứ chạy một vòng loanh quanh thành phố đi, về khách sạn sau cũng được. Lâu quá không đến Huế, tắm rửa nghỉ ngơi xong mới ra phố thì nóng ruột lắm. Giọng anh sốt sắng.
            - Chắc anh nặng tình với Huế lắm hè? Đất xứ ni nghèo thiệt nhưng nhiều người mê đắm lắm, xa rồi không mần răng quên được mô!
            Anh cười mỉm gật đầu thay cho câu trả lời đồng tình. Phố vụt qua trước mắt cùng những dòng ký ức ùa về ào ạt, dồn dập, hiển hiện rõ mồn một khiến tim anh như có ai đó bóp nghẹn, cổ họng khô rốc như vừa qua một cơn sốt dài. Rất dễ dàng để anh nhận ra ngay Giảng đường Đại học của thời hoa niên. Toà nhà vẫn thâm nghiêm với những cánh cửa chớp màu nâu và tường sơn vàng nhạt. Hàng bằng lăng do chính tay bạn bè lớp anh trồng nay đã cao lớn, xum xuê, đang nở bung những cánh hoa tím hồng. Sau hàng bằng lăng ấy, trong một căn phòng giữa giảng đường rộng lớn, lần đầu tiên, trái tim anh biết đập những nhịp khác thường.
            Nàng ngồi đó, yêu kiều, kiêu sa như một cánh sen trắng toả hương. Đôi mắt trong veo lay láy nhìn hờ hững, sóng mũi, bờ môi sắc nét, hoàn hảo như mới được vẽ nên bằng bàn tay của một hoạ sỹ tài hoa. Mái tóc đen mượt búi cao làm lộ rõ cổ cao ba ngấn trắng ngần. Áo nàng mặc màu nguyệt bạch, huyền ảo dưới ánh sáng bàng bạc của đèn màu. Xung quanh nàng cơ man là Sen, những cánh Sen trắng ngời tinh khiết. Sen ngã nghiêng, chờn vờn trong bình gốm điệu đà, sen dịu dàng trên tay nàng ngà ngọc, sen rải đều quanh gót hồng nàng ngan ngát thơm.
Dưới trăng mơ màng.
Em ngồi rửa tay
Những hạt tơ vàng
Vương xuống đất này
Tan thành giải mây
Vướng chân anh ngã
Em cười ròn rã
Anh thành cỏ cây…
 
 
 

Lời nguyện cầu đầu năm

07/10/2021 lúc 10:07






C





hợ như cái tổ kiến lửa, kẻ xuôi người ngược, thi thoảng dừng lại không lâu ở một quầy, mua bán rồi lại đi. Đám đông lích nhích chen nhau từng bước chân. Người đi sau thúc người đi trước. Ồn ã. Dường như ai cũng muốn nhanh chóng mua được thứ hàng mình đã “kê đơn” sẵn để kịp về sớm. Tôi được mẹ cho đi chợ sau một hồi “môi cong má phụng”. Mẹ bảo: Chợ tết đông lắm, người ta giẫm con bẹp như con gián. Ứ ự. Mẹ lại bảo: Nhỡ lạc thì sao? Tôi hứa sẽ bám chặt gấu áo mẹ đến khi về nhà.
Giờ tôi đang cùng mẹ lách qua đám đông chật kín người là người. Tôi bám riết vào áo mẹ đến nổi gấu áo quăn queo, còn tay tôi thì đỏ ong. Mục đích của tôi cho chuyến đi này là tự tay mình chọn chiếc váy và đôi giày ưng ý nhất để diện tết. Không phải mẹ chọn đồ không đẹp, nhưng tôi thích được đi ngắm chợ tết. Bình thường tắm xong, không giống những đứa trẻ khác mặc những bộ đồ do mẹ hoặc người thân lấy sẵn, tôi tự tìm trong tủ chiếc quần áo hay cái váy mà tôi thích. Mẹ cũng khuyến khích điều đó. Mẹ bảo như vậy phát huy được tính tự lập và tính chủ động.
Ai đó “Á” lên một tiếng thất thanh, rồi tuôn một tràng: Đi đứng kiểu gì thế? Mù à? Tổ kiến lửa như có người chọc vào. Lộn xạ. Cái giọng the thé phát ra từ khuôn hình “hộ pháp”. Tôi đoán bà ta bán thịt lợn bởi trên tay bà xách hai túi thịt to tướng, trước bụng đeo cái tạp dề luênh loang máu. “Thủ phạm” làm cho bà thịt lợn bực mình quát mắng chính là một cô gái bán hoa dạo. Vì chợ chật nên chị phải chăm chú “bảo vệ” bó hoa, không nhìn thấy bà thịt lợn đang xồng xộc đi tới. Cô gái đâm sầm vào bà thịt lợn rồi bật mạnh ra như một que củi va vào tấm phản gỗ. Bà thịt lợn phù mang trợn mắt, luồn lủi vào đám đông không quên để lại một câu rất “chợ”: Đồ ôn con mắc dịch. Khuôn mặt chị vốn đen nhẻm giờ chuyển sang bạc thếch. Nắng gió cuộc đời đã làm chị có vẻ già dặn, nhưng tôi đoán chắc chị cũng hơn tôi một vài tuổi thôi. Đôi mắt chị thảng thốt khi từng bước chân vô tình giẫm lên những cánh hồng tươi thắm. Nhanh như cắt, chị xoay người tạo một vòng tròn trống để bảo vệ hoa, đôi tay thoăn thoắt lượm nhặt những bông hoa vào lòng. Tôi mường tượng ra cảnh gà mẹ đang xoè bộ cánh để bảo vệ đàn con khi có kẻ thù đến mà mẹ vẫn thường kể cho tôi mỗi tối trước khi đi ngủ. Một giọt trong veo lăn xuống đôi môi khô ráp. Tôi muốn cúi xuống nhặt giúp chị ấy, nhưng không tài nào cử động được. Với lại, nếu buông tay khỏi gấu áo, tôi sẽ lạc mẹ ngay. Tiếng ai đó quát: Thôi đi đi, có gì đâu mà nhìn, cản hết cả đường.
Tôi và mẹ dừng lại quầy bánh kẹo, cơ man các loại, đủ hình dạng sắc màu. Bây giờ hạt dưa ít được chuộng. Mẹ bảo gần đây người ta mới phát hiện hạt dưa nhuộm phẩm màu có chứa chất gì đó ăn vào có thể gây ung thư. Trẻ con rất thích cắn hạt dưa nhưng nghe vậy tôi không giám nữa mà thay bằng các loại hạt bí hạt điều vừa ngon vừa bổ. Tôi chọn giúp mẹ thêm vài loại bánh, thạch dừa và không quên mứt gừng, trà xanh. Bà nội bảo: Trời tết tiết se lạnh, người già đến trẻ nhỏ ăn một miếng mứt gừng uống ngụm trà tiêu độc giải cảm.
Điểm dừng tiếp theo là quầy hoa quả. Năm nào hai anh em tôi cũng phụ bố cắm hoa, đặt quả. Bố bảo: Các dịp lễ tết phải cúng tổ tiên và các thần linh để bày tỏ lòng thành, mời tổ tiên thần linh về hưởng lộc và chứng kiến cảnh con cháu sum vầy, phù hộ độ trì cho con cháu học hành giỏi giang, ăn nên làm ra. Mẹ cầm quả dưa hấu trên tay, vỗ vỗ phát tiếng kêu bóc bóc, chọn lấy ba quả. Tôi lại học được một kinh nghiệm chọn dưa, nếu vỗ phát tiếng kêu bóc bóc, quả căng đều thì dưa chín tươi, tiếng kêu bộp bộp thì dưa nhạt, héo. Hoa mẹ vẫn chọn lay ơn và hoa huệ để thờ, còn hoa mai và hoa đào để cắm vào chậu ở bàn khách. Mẹ bảo mỗi loài hoa mang một ý nghĩa khác nhau. Hoa huệ và lay ơn là tỏ lòng biết ơn, niềm vui, sự thanh cao; hoa mai hoa đào tượng trung cho sự vui tươi rực rỡ của mùa xuân; ngoài ra hoa mai còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự cứng rắn vươn lên... Còn nhiều loại hoa nữa mà mẹ hứa sẽ kể sau và tôi cần có nhiều thời gian để nhớ hết ý nghĩa của nó. Cũng như dưa hấu, hoa mẹ chọn mỗi loại ba bó, một cho nhà tôi, còn lại biếu ông bà nội ngoại.
Bánh chưng bánh tét và dưa món là một phần làm nên hương vị tết, nhưng nhà tôi không phải mua vì năm nào nội ngoại cũng làm nhiều để cho con cháu. Tôi thích nhất là được cùng ông bà gói bánh. Ngoại bảo: Làm bánh cũng là một nghệ thuật. Muốn có bánh ngon phải kỹ càng từng công đoạn từ chọn nếp, đậu, thịt, nêm gia vị. Nhân bánh phải vừa không mặn không nhạt, rồi cách gói lá sao cho chiếc bánh vuông, tròn đều đặn. Tôi làm theo. Sản phẩm của tôi là một chiếc bánh không vuông không tròn, lại có đầu nhòn nhọn giống bánh ít. Cả nhà được một trận cười vỡ bụng...
 
 
 

Chuyện ông Thiện, ông Ác

07/10/2021 lúc 10:07






X





ưa, làng có một ngôi chùa nhỏ trên một ngọn đồi thấp. Từ lâu, chùa vắng người tu. Ông tự được cử ra trông coi, những năm đói kém phiêu bạt đi đâu mất. Chùa dần trở nên cũ nát. Làng nghèo không có tiền tu bổ. Lâu ngày chùa đổ, chỉ còn trơ lại hai mẩu tường ở hai cánh, chỗ dựa của hai ông hộ pháp. Hai ông đều cao to, cao to hơn người thật nhiều, ít ra là trong mắt bọn trẻ con. Một ông mặt đỏ, dữ dằn, mắt trừng mày xếch, tay xách một thanh đại đao, nom rất giống Quan Vũ, mà dân “mê” gọi là Quan Công, trong tranh Tàu. Đó là ông Ác. Ông kia mặt hồng, nom hiền hoà, tuy vẫn có vẻ uy nghiêm. Tay phải ông ta giơ lên một vật tròn tròn kẹp giữa đầu ngón tay trái và đầu ngón tay trỏ. Người ta bảo đấy là hòn ngọc, còn đám trẻ con thì thích đấy là viên kẹo hơn. Đó là ông Thiện.
Bọn trẻ thường ra chơi ở bãi cỏ trước ngôi chùa đổ. Chúng đánh khăng, đánh quay, kéo co, đánh vật,... Lạ một điều là chúng chỉ chơi trên vạt cỏ phía ông Thiện. Với ông Ác, thoảng hoặc chúng có nhìn thì cũng chỉ đứng xa xa mà ngó. Với ông Thiện thì thậm chí có đứa khi chơi trốn tìm còn dám đến nấp bên ông.
Một hôm, một đứa trong bọn bị mất trâu. Nó đến trước ông Thiện nói: “Ông ơi! Ông tìm giúp trâu cho cháu”. Rồi nó ngoảnh sang ông Ác kêu lên : “Ông thù tôi, ông cho trộm bắt trâu tôi, phải không?”. Hôm trước, nó đánh con khăng va vào mặt ông Ác. Tụi bạn nó đã cảnh cáo nó: “Mày động đến ông Ác, mày chết!”. Ngay chiều hôm ấy thằng bé tìm thấy trâu; trâu nó ăn lúa bị người ta giữ. Nó đến cảm ơn ông Thiện rối rít mà lờ đi chẳng có lời nào với ông Ác cả.
Đêm đến, ông Ác phàn nàn với ông Thiện (các ông chỉ trao lời với nhau ban đêm vào lúc các ông được nghỉ, lúc ấy chắc chắn không bị ai nghe lỏm):
- Thật là bất công! Ngay cả bọn trẻ cũng thành kiến với tôi. Ông được gọi là ông Thiện vì ông phụ trách việc thưởng người làm điều tốt. Còn tôi được giao việc răn đe và phạt bọn làm điều xấu thì bị gọi là ông Ác. Người đời không hiểu cứ nghĩ ông Ác thì chuyên làm việc Ác.
Ông Thiện an ủi bạn:
- Có lẽ tại bộ dạng ông oai nghiêm quá đấy thôi. Nói thật, bộ dạng chúng mình hơi kềnh càng, to tợn, chính tôi ban đầu cũng bị bọn trẻ xa lánh. Gần được chúng, công phu lắm đấy.
- Ông làm như thế nào?
- Đêm đêm tôi thường đến thăm chúng trong giấc ngủ của chúng, vỗ về chúng, hỏi han chúng, đưa chúng vào những giấc mơ đẹp. Dần dà, tôi gần gũi chúng trong linh cảm trẻ thơ.
- Đêm nay ông cho tôi đi cùng nhé.
Đêm đó, hai ông cùng đi. Khi trở về, ông Ác thở dài bảo ông Thiện:
- Lũ trẻ chỉ thấy có ông thôi, chẳng ngó ngàng gì đến tôi cả.
- Thôi thế này! - Ông Thiện ngẫm nghĩ rồi nói- Đêm mai, ông đi một mình, coi như tôi bận hoặc tôi mệt, ông thay mặt tôi.
Đêm sau, ông Ác đi về buồn xỉu, ông Thiện hỏi chẳng buồn thưa. Bạn gặng mãi, ông chán nản nói:
- Tôi đến gặp một thằng bé vừa mới nói được mỗi câu, nó đã lảng.
- Ông nói câu gì?
- Tôi hỏi: “Cháu có làm điều gì sai trái không?”
- Trời ơi! - Ông Thiện lắc đầu. Ông lắc hơi mạnh làm bong một lớp vôi nơi cổ - Ông mắc bệnh nghề nghiệp rồi. Có phải ông đang đi truy việc ác để phạt đâu. Câu ấy mà nói với người lớn thì hoặc là họ rụt cổ lại, hoặc là họ trừng mắt lên với ông. Sao ông không hỏi: “Cháu đã làm được những điều gì tốt?”. Mà chưa chắc nó đã nói ra đâu. Ông thật là...
- Hỏi vậy là việc của ông chứ. - Ông Ác cáu.
Ông Thiện định khuyên không nên cứng nhắc, ngay lúc làm phận sự phải giữ đúng phép tắc cũng phải hiểu lòng người, nhất là lòng con trẻ. Nhưng nhìn sang, ông thấy ông Ác đứng im lìm như... tượng, tỏ rõ cái ý chẳng muốn nghe nữa. Ông buồn rầu nghĩ: “Chắc chẳng phải anh đắp tượng tạo nên ông ta ra thế thì ông ta cứ là phải thế”.
Từ đấy hai ông hầu như không chuyện trò gì với nhau....
 
 
 

Ván cờ cuối năm

07/10/2021 lúc 10:07






Ô





ng Khoát tắt cái ti-vi đang lải nhải về giá cổ phiếu xuống và vàng lại đột biến tăng, đến ngồi bần thần bên bàn cờ. Những lượn khói trầm từ chiếc lư tỏa ra lượn nhẹ một vòng trước mặt ông, rồi theo gió tháng chạp vụt ra ngoài, hoà vào màu xanh của mặt sông còn vương sương sớm bên hông nhà. Trên bàn là thế cờ hay ông vừa tìm được trên báo. Thế cờ ít quân nhưng hiểm hóc. Cái anh thua rõ mười mươi nhưng lại thắng nhờ  mỗi nước đi tiên  ắt là phải có mẹo lắm!
Ông Khoát châm thêm nước sôi vào ấm trà, ngồi thừ người trước bộ cờ bằng sừng. Sừng trâu trắng. Thường cứ ngồi trước bàn cờ, trong trí ông năm tháng cũ lại níu kéo hiện về.
Thời ấy, đâu vào giữa thập niên sáu mươi, thiên kỷ trước. Đang chiến tranh, nhà ông ở lại thuộc vùng “xôi đậu”, ngày địch đêm ta, nên ngút ngàn đạn bom khói lửa. Trước sự chết chóc, hiểm nguy lúc nào cũng có thể xảy ra cho gia đình, cha của ông quyết định đùm túm nhau về thành.
Về thành có nghĩa là tất cả phải bỏ đi, làm lại. Mà làm lại, sinh sống lại, hoàn toàn khác. Từ người chân rẫy biến thành thị dân. Nói thì một nhưng khó lại muôn vàn. Khó nhất trong việc ra đi lúc bấy giờ là cặp trâu trắng của nhà nuôi, giúp làm đất, rẫy. Cặp trâu có từ khi Khoát mới sinh . Không chỉ là “đầu cơ nghiệp”, chúng đã đồng lao cộng khổ cùng gia đình qua biết bao nhiêu biến cố. Sừng mỗi bên của con dài gần bằng chiếc đòn gánh. Bỏ lại không đành, còn về phố chợ ai lại mang theo trâu? Lánh về vùng tạm chiếm là việc chẳng hay hớm gì, nên chớ để ai biết và vì thế cũng không thể bán nó cho ai. Đang chưa biết giải quyết thế nào thì mấy hôm sau, một khuya có trận súng nổ dữ dội giữa lính Sài Gòn và mấy ông Cách mạng. Sáng ra, cặp trâu trắng đã chết lăn kềnh trong chuồng bên rẫy.
Vậy là gia đình Khoát ra đi, cặp trâu theo chỉ có mỗi bốn cái sừng. Theo để tưởng nhớ nó chứ rồi cũng xếp xó vì diện tích ở ăn eo hẹp nơi phố thị.
Những năm tháng tị nạn, Khoát dần lớn lên. Nhờ vào thương tật từ bé ông được miễn dịch, không phải đi lính cho chế độ Sài Gòn. Khoát tham gia vào việc nuôi sống gia đình bằng nghề đánh giầy. Hồi đó trên các đường phố Châu Thành, đây đó thấy có người ngồi theo kiểu ông đồ, trước mặt bày ra bàn cờ tướng với mấy thế độc, thế hay mời, thách đố khách bát phố, qua đường tham gia đánh, giải. Ấy là cách tiêu khiển thời gian trong chiến tranh của dân phố chợ. Đường nào cũng thấy người tụm năm túm ba suy nghĩ, bàn tán trước những cuộc cờ mà cá cược của nó từ vài điếu Ru-bi, Capstan… cho đến số tiền có thể mua tới  cả con trâu! Đó là nơi khách duỗi chân ngồi chơi cờ, tha hồ cho kẻ đánh giầy như Khoát hành nghề. Có hôm đánh giầy xong, chờ cả buổi khách xong cuộc cờ mới trả tiền. Những ngày vắng khách đi giầy, Khoát tham gia làm kẻ giải cờ mồi. Gặp người  qua đường thấy dễ ăn “nóng máu” tham gia, chủ bàn tùy thắng nhỏ to, cũng cho Khoát được khi dăm đồng lúc vài ba chục. Riết rồi ông thành cao thủ cờ lúc nào không hay. Việc gì Khoát có thể ngu ngơ, ù tịt nhưng với cờ tướng mắt ông cứ sáng lên và trí lự lại trở nên minh mẫn vô cùng. Còn cờ thế thì đôi khi chỉ nhìn qua, ông có thể biết ăn thua là đi bao nhiêu “nước”. Lớn lên chút nữa, Khoát  bỏ hộp đánh giầy xoay qua bày cờ tướng thế. Những công việc thuần trí óc khác có tai nạn nghề nghiệp hay không, chẳng biết; riêng ông khám phá rằng cái nghề bày cờ thế này, hệ số rủi ro trong cá cược là rất ít. Thậm chí còn ít hơn cả đánh giầy! Đánh giầy vô phúc gặp thằng say, không những không trả tiền nó còn đá cho một phát văng cả người lẫn đồ nghề. Nhưng bày cờ tướng thế, dù cá cược lớn, khách chơi nước đầu nếu cầm đúng vào quân cờ trúng thế giải, mình chỉ cần vái dài “xin đại ca đừng phá, để em kiếm chút cháo!” và kỉnh mời điếu thuốc thơm, là xong. Khách sẽ tự hào bỏ đi đúng kiểu của người cao thủ. Còn khởi đầu đi, vớ vào quân trật, lộn thế dù người đó có giỏi cờ như … Đế Thích ngày xưa, kể như chủ cũng cứ rung đùi, hốt bạc. Mà trong cờ tướng, người “chưa sạch nước cản” lại càng ham đánh, giải cờ!
            Rồi Khoát lập gia đình. Và thời cuộc, chiến tranh cứ trôi đi bên ông với những thế cờ “ăn chắc” trên phố phường cho đến ngày Miền Nam giải phóng. Ông giải nghề cờ thế rồi tiếp đến cha mẹ ông qua đời…
 
 
 

Dây tơ hồng

07/10/2021 lúc 10:07












 quê Hạnh, tơ hồng hay vắng vít thì có khác chi nhau. Chẳng qua, gọi tơ hồng cho có vẻ mềm mềm, mát mát, gọi tơ hồng cho người ta cái cảm giác liên tưởng tới những sợi tơ trời giăng mắc vậy thôi. Còn vắng vít xem ra cũng không khác vậy. Những búi sợi níu từ ngọn cây này sang ngọn cây kia, chúng níu vào nhau, vắng vít cứ như nếu không vậy nó chực xổ tung ra mà đổ xuống đất không chừng.
Nhiều lần, Hạnh nhìn tơ hồng như chết sững rồi chợt nghĩ, chúng đẹp thiệt! Mỏng manh đến nao lòng, đến tội nghiệp, nhưng chúng sinh ra từ đâu nhỉ? Chúng tồn tại để làm gì? Ngoài cái việc bị người ta dùng thứ dây đã già nghiền nát rồi trộn với phân trâu bò, quệt lên đáy của mấy cái thúng, cái rá hay cái nông cái nia cho bền hoặc giã nhỏ trộn với mật mía để trét quan tài cho kín thì nó chẳng mong có lấy cái tích sự gì!? Về nhà hỏi bà ngoại, bà bảo nó là tơ trời đấy con ngốc ạ! Tơ trời nghĩa là sao kia? Hạnh không biết thì Hạnh hỏi. Còn ngoại thì nói: lúc mô to to chút nữa rồi biết, hỏi chừ, biết chừ không để mần chi. Hạnh cứ lẽo đẽo theo ngoại ra rú bứt bổi đem lấp vồng khoai, theo ngoại ra trảng nhổ sắn về nhập cho mấy người đi thu mua, theo ngoại đi cào cỏ lúa, hỏi tới hỏi lui rã họng, Hạnh chỉ được ngoại dạy cho mấy cái vô “gáo”: Mi hỏi chi hỏi lấy, hỏi để. Không lo mà mần mạn, đến tuổi lấy “dôông”, vắng vít hắn không xe lấy mô “dôông” mà lấy! Ối trời! Rứa là Hạnh hiểu, tơ hồng giúp con gái có người dạm ngõ, có người rước về chớ không ở giá như dì Thơm, dì Thía…Nhưng mà, dây tơ kia nó xe kiểu chi hè? Hạnh băn khoăn, băn khoăn. Băn khoăn cho đến ngày Hạnh 28 tuổi!
Trước đó, cái hồi Hạnh 16 hay 17 chi đó, Hạnh cũng đã có người yêu. Anh trai làng trạc tuổi Hạnh nhưng đen cháy, chỉ có vòm ngực đỏ au và đôi cánh tay rắn đanh như nhánh trăm bù. Huệ trêu anh, vắng vít nó xe anh với Hạnh rồi! Anh với Hạnh mà về ở với nhau là cực lắm đó! Gã trai 17 thắc mắc, sao cực? Ngày thì đi cuốc đất, cuốc ruộng, tối đi chơi trên làng dưới xóm. Mùa khoai cũng đi chặt bổi trên đôộng, mùa dưa cũng xe bổi trên đôộng về, tối sáng trăng đi chơi ngoài trảng, sướng như tiên, cực chi mà cực? Hạnh không biết giải thích sao cho người yêu hiểu, cái tuổi mà ngoaị Hạnh nói, ăn chưa no lo chưa tới làm chi biết sự đời ra răng mà tính! Rồi ngoại thở ra đánh thượt. Nghe ngoại thở dài, Hạnh thương lắm. Vậy ra dây vắng vít không xe nổi rồi! Ngoại thở dài thế kia là ngoại có lý của ngoại. Từ hồi con nít đến giờ, Hạnh đâu trái ý ngoại. Ngoại là tất cả những hay ho mà “Ông xanh” trao cho Hạnh. Giả sử không có ngoại trên đời, Hạnh đâu biết gì?!
Và cũng năm đó ngoại nằm liệt giường. Người ngoại dán trít vô tấm chăn chiên mỏng Hạnh lót thay tấm nệm để ngoaị bớt đau lưng. Khi đó nghe nói ngoại 68 hay 67 chi đó. Hạnh tính thôi học lớp bảy (hệ mưòi năm) để ở nhà coi sóc ngoại. Lần đầu tiên, Hạnh nhìn tới ngó lui trong căn nhà tranh nhỏ chun chút như cái trại người ta lập để canh dưa ngoài trảng. Không có thứ chi đáng giá trừ cái nồi tư bằng đồng, cái mâm cũng bằng đồng. Lộn tới lộn lui, Hạnh nghe ngoại chỉ, yên đi con, lo chi mà nhìn tới ngó lui. Ngoại có nằm ba năm con cũng không đói. Lo mà đi kiếm cái chữ, biết mô sau ni đổi đời như thằng Tiến, con Hoài nhà ông Dựng. Cúi thấp thấp vô mà coi cái đôn to nhất nhà coi có bao nhiêu lúa ngoại trữ sẵn đó mà còn lo! Ngoại cười mà mắt Hạnh rưng rưng. Ngoại không lo Hạnh đói mà lo Hạnh bỏ học. Ngoại làm trằn lưng để Hạnh khỏi đói qua ba năm nếu ngoại liệt giường! Hạnh khóc no ba ngày, không cơm không cháo, không cả củ khoai cầm hơi. Chao ơi! Đời ngoại vắng vít xe tơ kiểu chi mà một thân một mình từ khi Hạnh còn con nít?! Lần đầu tiên sau 17 năm ngoại ẳm bồng, chăm bẵm, Hạnh chợt nghĩ đến mẹ. Mẹ ở đâu trong thế giới hạn hẹp của Hạnh? Lần đầu tiên Hạnh nghĩ, có vẻ như vắng vít cũng không xe tình, xe ngãi chi cho mẹ nên mẹ mất tăm từ khi Hạnh ra đời!
Thế là Hạnh không bỏ học. Hạnh cũng lớn khôn như bao con gái làng. Hạnh đi học lớp y sỹ, không mong giàu có đổi đời như ngoại mà mong có cái tay nghề để ngoài việc đi làm còn lo thuốc thang tiêm chích cho ngoại khi trái gió trở trời. Vậy mà, ngoại không đếm xỉa chi đến lòng nhiệt tình của Hạnh. Ngoại mất khi Hạnh vừa học xong. Hạnh vừa vững tay bơm, tay kim, vừa thuộc hết mấy cái chữ thuốc tây ngoại. Cứ tưởng mau về kịp ngoại sẽ mừng hết cỡ mà sống với Hạnh thêm dăm bảy năm, cùng khóc cùng cười với Hạnh khi Hạnh vui cũng như lúc Hạnh buồn...
 

« 4748495051 »

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

28/04

25° - 27°

Mưa

29/04

24° - 26°

Mưa

30/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground